Vì sao cá rô phi chết

19/05/2020 | Nguyễn Hằng

 Nguyên nhân:

Tác nhân gây bệnh cho cá rô phi chủ yếu là 02 loài vi khuẩn: Streptococcus agalactiae gây chết hàng loạt và loài Streptococcus iniae cũng gây chết nhưng tỷ lệ chết thấp hơn. Đây là một loại vi khuẩn Gram +

Dịch bệnh thường xảy ra khi cá nuôi tiếp xúc với sự căng thẳng [stress] như nhiệt độ nước tăng, lượng oxy trong nước thấp dưới mức cho phép hoặc cá bị nuôi với mật độ cao trong thời gian dài. Về mặt lý thuyết thì bệnh lây nhiễm cho cá ở mọi lứa tuổi, kích cỡ. Tuy nhiên cá có kích thước lớn [từ 100g đến cỡ thương phẩm] dễ bị mắc bệnh hơn cả. Bệnh ở giai đoạn cấp tính với đỉnh điểm tử vong trong khoảng từ 2-3 tuần khi nhiệt độ nước cao. Tuy nhiên bệnh cũng có thể ở giai đoạn mãn tính khi nhiệt độ nước thấp có thể làm giảm thấp tỷ lệ chết. Bệnh lây lan theo chiều ngang từ cá với cá [cá khoẻ ăn cá bị bệnh, ăn thịt lẫn nhau, do vết thương trên da...] và cũng có thể lây truyền từ môi trường đến cá.

 Triệu chứng lâm sàng:

- Hành vi bất thường: Do vi khuẩn gây bệnh có hướng tấn công vào hệ thống thần kinh trung ương của cá nên cá bị bệnh sẽ có biểu hiện bị hôn mê và mất phương hướng. Những tổn thương mắt có thể gặp như viêm mắt hoặc lồi mắt, chảy máu mắt. Tuy nhiên không phải con cá nào bị bệnh cũng bị những tổn thương về mắt.
- Các vết áp-xe: Những con cá bị nhiễm bệnh do vi khuẩn Streptococcus thường thấy những vết áp-xe có đường kính từ 2-3mm và những vết loét này nhanh chóng vỡ ra tạo thành những vết lở loét xuất huyết không lành. Những vết áp-xe lớn hơn có thể gặp thấy ở vây ngực và phần đuôi của cá và những vết áp-xe đó có chứa vật chất như mủ ở bên trong.
- Xuất huyết ở da: Bệnh do vi khuẩn Streptococcus là nguyên nhân gây xuất huyết bên ngoài da. Nhìn chung các điểm xuất huyết thường được nhìn thấy ở quanh miệng cá hoặc ở các gốc vây. Đôi khi cũng có thể quan sát thấy những vùng da hơi đỏ xung quanh hậu môn hoặc lỗ sinh dục của cá.
- Dịch cổ trướng: Sự có mặt của dịch chất lỏng trong bụng của cá là dấu hiệu của dịch bệnh ở thời kỳ cấp tính. Dịch này có thể được nhìn thấy chảy ra từ hậu môn của cá [Cá bị xuất huyết nội tạng].

Bệnh tích mổ khám

- Cá bỏ ăn: Nhìn chung không có sự hiện diện của thức ăn khô trong dạ dày hoặc ruột của những con cá bị bệnh. Tuy nhiên trong các ao nuôi cá thương phẩm khi cá bị bệnh ở giai đoạn đầu bệnh mới bùng phát cá vẫn có thể ăn bằng cách lọc thức ăn. Khi ruột và dạ dày của cá trống rỗng thức ăn thì sẽ quan sát thấy túi mật rất to, đó là đặc trưng của sự vắng mặt hoạt động tiêu hoá trong cơ thể.
- Nhiễm trùng máu: Trong giai đoạn cấp tính của bệnh vi khuẩn nhanh chóng đi đến hệ thống máu và lan toả đến tất cả các cơ quan nội tạng. Những dấu hiệu lâm sàng chính liên quan đến sự nhiễm trùng máu là sự xuất huyết, viêm gan, thận, lá lách, tim, mắt và ống ruột. Lá lách thường mở rộng ra [trương và sưng nhẹ].
- Viêm màng bụng: Khi cá bị nhiễm bệnh nặng có sự dính nhau của các cơ quan nội tạng với màng trong khoang bụng của cá. Hơn nữa lúc này sự hiện diện của các tơ huyết [fibrinous] có thể được quan sát thấy trong màng ở khoang bụng của cá.
Ngoài ra khi cá bị nhiễm bệnh nặng, bệnh còn kết hợp với những vi khuẩn cơ hội khác gây bệnh cho cá có sẵn trong môi trường như vi khuẩn Aeromonas spp ở nước ngọt hay vi khuẩn Vibrio spp ở trong nước lợ.

Điều trị

- Trường hợp cá bệnh: Phải vớt cá chết xử lý bằng vôi sống và đem chôn; không tự ý vứt xác cá, thải nước ao đầm có cá chết chưa xử lý‎ ra môi trường chung; đồng thời báo cáo ngay cho cơ quan quản lý địa phương để được hướng dẫn biện pháp xử lý kịp thời. Sử dụng VIPRIO STOP liều lượng 1kg/3000 m3 nước, hoặc POVIDIN 9000 liều 1 lít/ 2000m3 nước để tiêu diệt mầm bệnh. Sau 5 ngày xử lý lại một đợt, làm 3-4 đợt để đảm bảo sạch mầm bệnh có trong ao nuôi

- Giảm cho ăn: Trong thời gian dịch bệnh bùng phát ở giai đoạn cấp tính nên giảm một phần thức ăn hoặc giảm hoàn toàn thức ăn có thể giúp kiểm soát và giảm tỷ lệ tử vong. Một trong những giả thuyết giải thích cho việc này là vi khuẩn có mặt trong nước và xâm nhập thuận lợi vào cơ thể theo đường thức ăn.
- Giảm mật độ nuôi: Khi tỷ lệ tử vong tăng thì việc giảm mật độ nuôi sẽ giúp giảm bớt đi sự căng thẳng và sự chuyển tải của mầm bệnh trong đàn cá. Luôn giữ mức oxy hoà tan ở mức tối, sử dụng chế phẩm sinh học để ổn định môi trường ao.
- Giảm nhiệt độ của nước: Khi nhiệt độ nước cao dễ tạo căng thẳng cho cá và là điều kiện thuận lợi để vi khuẩn phát triển. Vì vậy việc hạ thấp nhiệt độ nước có thể được thực hiện trong hệ thống nuôi nước tuần hoàn nơi mà nhiệt độ nước được kiểm soát. Đối với những ao nuôi có kích thước nhỏ có thể dùng lưới che nắng để giảm bớt nhiệt độ nước. Sử dụng máy quạt nước vào ban đêm cũng là cách làm giảm nhiệt độ nước và tăng lượng oxy.

- Điều trị bằng kháng sinh 
Sử dụng các loại kháng sinh thế hệ mới, phổ kháng khuẩn rộng chuyên dùng để phòng ngừa và đặc trị các bệnh nhiễm khuẩn do: Aromonas sp, Pseudomonas sp, Streptococcus sp… 

BIO AMOXICILLIN 50% for fish 100gr cho 700 - 900 kg thể trọng cá. Dùng 7-10 ngày liên tục cho cá khỏi bệnh hẳn 

- Trộn vào thức ăn C.FEED liều lượng 1 kg / 200 kg thức ăn, tác dụng để tăng sức đề kháng 

- Trộn vào thức ăn SUPERLIV liều lượng 1 lít cho 500 kg thức ăn, tác dụng giải độc và phục hồi chức năng gan, thận cho cá

Chăm sóc sau điều trị  : Sau khi cá khỏi bệnh dùng chế phẩm Nova NB 25 để tái tạo hệ vi sinh vật có lợi cho nước ao nuôi và trộn thêm các sản phẩm bổ gan [SUPERLIV ], men tiêu hóa [ BIO VIZYME ] giúp cho cá tăng sức đề kháng,nhanh hồi, không bị tái bệnh

Phòng bệnh

- Chăm sóc, quản lý ao nuôi: Duy trì mức nước trong ao từ 1,6 – 1,8 m. Thức ăn cho cá đảm bảo đủ số lượng và chất lượng, bổ sung Glucan 4-5g/kg thức ăn, trong thời gian 7 ngày liên tục khi thời tiết nắng nóng kéo dài. Rắc vôi xung quanh bờ và nước ao trước hoặc sau khi trời mưa [2-3 kg/100m2].

Chú ý: Tuyệt đối không sử dụng nước thải, chất thải, phân … của gia súc, gia cầm thải thẳng trực tiếp xuống ao nuôi cá, đây là con đường truyền nhiễm các loại ký sinh trùng [giun, sán…]; vi khuẩn [Steptococcus…] … gây bệnh cho cá. Hạn chế sử dụng các loại phân hữu cơ ủ hoai làm thức ăn cho cá.

   Phương pháp dự phòng: Biện pháp hiệu quả nhất hiện nay là sử dụng Vắc xin vô hoạt keo phèn HAN-STREPTILA phòng bệnh do vi khuẩn Streptococcus spp.

Cá rô phi chứa ít chất dinh dưỡng. Các nhà nghiên cứu từ trường Y khoa của Đại học Wake Forest đã nghiên cứu và cho ra một báo cáo về hàm lượng axit béo omega-3 trong các loại cá phổ biến. Điều đáng nói là cá rô phi chứa ít axit béo hơn hầu hết các loại cá trong danh sách này.

Cá rô phi có nhiều chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất, trong đó có một lượng đáng kể protein, axit béo, selen, phốt pho, kali, vitamin B12, niacin, vitamin B6 và axit pantothenic... Những chất này rất tốt cho sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể.

Ngoài ra cá rô phi chứa hàm lượng protein rất ấn tượng, chiếm hơn 15% nhu cầu hàng ngày của chúng ta vì thế cá này đang trở thành món cá rất nhiều người ăn.

Nguy hiểm khi ăn phải cá rô phi nuôi trong môi trường không sạch

Tuy nhiên hiện nay cá rô phi được nuôi trong các trang trại là chủ yếu, có rất ít trong tự nhiên.

Năm 2009, các nghiên cứu ở Bộ Nông nghiệp Mỹ đã kiểm tra thủy hải sản nhập khẩu từ Trung Quốc và tiết lộ, nhiều trang trại ở Trung Quốc nằm trong khu vực bị ô nhiễm nặng.

Hầu hết cá rô phi tiêu thụ ở Mỹ hiện nay do các trang trại nuôi thay vì đánh bắt từ thiên nhiên. Cá nuôi ở trang trại thường tiếp xúc với các chất ô nhiễm hữu cơ gây ung thư nhiều hơn 10 lần so với cá rô phi tự nhiên.

Hơn nữa, một trong những thành phần chính trong thức ăn là phân của gà và chất thải chế biến từ lợn và vịt cũng khá phổ biến.

Các loại cá thường là nguồn cung cấp Omega 3 rất quan trọng cho cơ thể. Omega 3 có lợi cho sức khỏe bằng cách giảm huyết áp, giảm cholesterol trong máu, tăng cường hệ miễn dịch.

Nó cũng ngăn ngừa được viêm khớp, trầm cảm, bệnh tim và thậm chí là cả ung thư. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu của Đại học Wake Forest [Mỹ] vào năm 2008 thì cá rô phi chứa nhiều Omega 6 hơn Omega 3 theo tỷ lệ 11/1.

Theo các nhà khoa học thì mặc dù Omega 6 cũng cần thiết cho cơ thể nhưng tỷ lệ của nó và Omega 3 thích hợp nên là 2/4.

Tỷ lệ Omega 6 và Omega 3 trong cá nếu lớn hơn 6/1 có thể sẽ tăng nguy cơ gia tăng bệnh suyễn, viêm khớp và các bệnh viêm khác trong cơ thể.

Theo kỹ sư hóa thực phẩm Hồ Thu Thủy, bất kể các loại rau thủy sinh hay các loại thức ăn như ốc, trai kể cả cá rô phi nuôi hay tự nhiên nếu sống trong môi trường bị ô nhiễm như các kim loại nặng đều ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Bởi môi trường kim loại nặng đặc tính nổi bật là sau khi xâm nhập vào cơ thể, kim loại ít bị đào thải mà tích tụ theo thời gian rồi mới gây độc.

Vì vậy, nếu các loại cá như cá rô phi bị nhiễm độc từ môi trường nuôi và trở thành thức ăn của con người thì sẽ là một mối đe dọa không nhỏ tới sức khỏe con người.

Với gia đình Việt, cá rô phi cũng là một loại thực phẩm được sử dụng thường xuyên trong các bữa ăn. Trong cá rô phi chứa nhiều chất dinh dưỡng như vitamin, khoáng chất, protein, axit béo cần thiết,…Tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu mới nhất của viện dinh dưỡng ở Mỹ, khẳng định cá rô phi là một mối nguy hại lớn cho sức khỏe người sử dụng.

Bạn có nguy cơ mắc ung thư

Đã có rất nhiều báo cáo cho rằng cá rô phi có nguồn gốc không rõ ràng được nuôi bằng phân động vật. Chúng có thể làm tăng nguy cơ ung thư gấp 10 lần so với cá được đánh bắt trong tự nhiên.

Năm 2009, các nghiên cứu kinh tế của Bộ Nông nghiệp Mỹ [USDA] đã kiểm tra thủy sản nuôi nhập khẩu từ Trung Quốc và tiết lộ rằng nhiều nông trại cũng như nhà máy chế biến thực phẩm tại Trung Quốc đang nằm trong khu vực công nghiệp nơi không khí, nước, đất bị ô nhiễm.

Bạn có thể ăn phải thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu và hóa chấtCá rô phi trong thời gian gần đây dễ bị bệnh hơn. Nhiều chủ trang trại đã cung cấp cho cá thuốc kháng sinh để giúp chúng tránh khỏi bệnh tật. Những hóa chất này có hiệu quả trong việc giúp cá rô phi khỏe mạnh nhưng vẫn có hại cho sức khỏe con người khi ăn phải.

Dibutylin – một chất hóa học được sử dụng trong việc tạo ra nhựa PVC cũng có thể được tìm thấy trong cá rô phi nuôi ở trang trại. Hóa chất độc hại này được biết đến với khả năng gây ra viêm nhiễm và làm suy yếu hệ miễn dịch. Nó cũng làm tăng nguy cơ dị ứng, hen suyễn, béo phì và các rối loạn chuyển hóa.

Một hóa chất độc hại khác từng được tìm thấy trong cá rô phi nuôi là dioxin. Đây là chất có liên quan đến sự khởi phát và tiến triển của bệnh ung thư và các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác. Đồng thời, nếu ăn phải thực phẩm có chứa dioxin, cơ thể phải mất từ 7 – 11 năm để đưa chất này ra ngoài.

Tuy nhiên, trên đây chỉ là những lời cảnh báo và không phải cứ ăn cá rô phi là nguy hiểm. Điều quan nhất là mỗi người chúng ta nên bảo vệ sức khỏe của chính mình và gia đình bằng cách thận trọng khi mua cá rô phi, tránh mua phải các sản phẩm cá nuôi độc hại từ Trung Quốc hoặc trong nước, đồng thời ăn ở mức độ vừa phải để không làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Cách lựa chọn cá rô phi nuôi và cá tự nhiên

Bình thường cá rô phi nuôi hay các loại cá khác được nuôi theo cùng một lứa, tức là các con cá tương đối bằng nhau về cân nặng.

Nhìn vào một chậu cá của người bán, nếu cùng một loại cá mà các con cá đều nhau thì phần lớn là cá nuôi. Do cá nuôi trong ao, hồ chật hẹp hơn cá tự nhiên, nên nó sẽ bơi chậm và không khỏe bằng cá tự nhiên. Khi ăn cá nuôi thịt sẽ bở và mùi không thơm.

Còn cá tự nhiên thương giữa các loại cá không bằng nhau con to, con nhỏ, sống khỏe hơn. Hoặc người mua có dựa vào địa lý, nếu chợ nào gần sông, suối thì cũng có thể thi thoảng có cá sông. Còn ăn cá tự nhiên thì thị sẽ chắc thơm và ngọt hơn.

Video liên quan

Chủ Đề