Vì sao quân dân nhà trần đánh bại quân xâm lược mông - nguyên

Mục lục

Hoàn cảnh

Năm 1225, dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, nữ hoàng nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là vua Trần Thái Tông. Nhà Trần chính thức thay nhà Lý. Sau khi chính thức nắm quyền cai trị Nhà Trần ra sức củng cố nội chính và chấm dứt nạn cát cứ từ cuối thời Lý. Tới năm 1229, sau khi Nguyễn Nộn ốm chết, các lực lượng chống đối cơ bản bị dẹp.

Trong khi đó ở phương Bắc, Trung Quốc từ lâu đã bị chia cắt. Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ [1227] và Kim [1234]. Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống.

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm Vương quốc Đại Lý [Vân Nam ngày nay], muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối mà lại còn cho bắt giam các nhà ngoại giao Mông Cổ.

Chiến tranh nổ ra vào đầu năm 1258 khi Uriyangqatai [Ngột Lương Hợp Thai] cùng con trai là Aju đem 3 vạn quân người Mông Cổ và 1,5 vạn quân người Đại Lý tấn công Việt Nam. Quân Mông Cổ đã mau chóng giành được thắng lợi, chiếm được kinh đô Thăng Long, nhưng rồi cũng mau chóng bị quân Đại Việt đánh bật. Cuộc chiến năm 1258 chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, đến cuối tháng 1 năm 1258 thì quân Mông Cổ thất bại và rút hết khỏi Đại Việt.

Hai mươi năm sau, không cần đi đường qua Đại Việt, Mông Cổ vẫn đánh bại được nước Tống. Nhà Nguyên được thành lập trên lãnh thổ Mông Cổ và Trung Quốc ngày nay. Đế quốc này tìm cách mở rộng lãnh thổ của mình ra phía đông tới Nhật Bản, và xuống phía nam. Để thực hiện ý đồ tiến xuống phía nam, Nhà Nguyên đã tiến hành chiến tranh với Chiêm Thành và Miến Điện trước. Nhưng quân và dân Chiêm Thành đã kháng chiến thắng lợi, khiến cho quân Nguyên không thực hiện được ý đồ lấy Chiêm Thành làm bàn đạp. Ở Miến Điện năm 1277, quân Mông Cổ cũng chịu những thiệt hại quân sự và phải rút lui. Đại Việt trở thành nơi phải bị khuất phục để quân Mông Cổ có thể tiếp tục chiến lược hướng nam. Dưới chiêu bài đề nghị Nhà Trần mở đường cho đại quân Nguyên đi qua chinh phạt Chiêm Thành, quân Nguyên tìm cách tấn công Đại Việt.

Lần thứ nhất

Bản đồ mô tả cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông Cổ
Bài chi tiết: Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1

Lần thứ nhất Mông Cổ tấn công Đại Việt vào tháng 2 năm 1258. Từ Đại Lý, khoảng 15.000 – 25.000 kỵ binh Mông Cổ và 20.000 quân Đại Lý [tổng cộng là khoảng 35.000 – 45.000 quân] tiến vào Đại Việt.

Quân Đại Việt năm 1258, gồm quân cấm vệ và quân các lộ, có khoảng 10 vạn, trong đó có 2 vạn cấm quân [lực lượng chủ lực đóng ở gần kinh thành] và 8 vạn sương quân [quân đóng ở các địa phương]. Tuy nhiên, 8 vạn sương quân này phải đóng quân rải khắp trên lãnh thổ cả nước, bao gồm việc ngăn ngừa nổi loạn, chống đạo tặc, canh gác biên giới và lăng tẩm... nên nhà Trần chỉ có thể tập trung được một bộ phận để tác chiến với Mông Cổ.

Đích thân vua Trần Thái Tông và Thái tử Trần Hoảng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên [nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc]. Quân Mông Cổ tỏ ra chiếm ưu thế, quân Trần khi thất lợi đã chủ động rút lui về Phù Lỗ để bảo toàn lực lượng chứ không dốc sức đánh tới cùng, quân Mông Cổ đã không thành công trong việc tiêu diệt quân chủ lực Đại Việt và bắt các vua Trần.

Trận tiếp theo diễn ra tại Phù Lỗ [bên sông Cà Lồ]. Quân Đại Việt lại bị đánh bại. Tuy nhiên, Nhà Trần đã dự tính trước điều này và đã chủ động sơ tán người dân và của cải ra khỏi kinh đô từ trước. Quân Mông Cổ dù chiếm được Thăng Long, nhưng Nhà Trần đã thực hiện "vườn không nhà trống", đem đi hết lương thực trong thành khiến quân Mông gặp phải khó khăn về lương thực.

Chỉ 10 ngày sau khi rút khỏi Thăng Long, Vua Trần và Thái tử lại dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu [nay là quận Ba Đình, Hà Nội]. Quân Mông Cổ lập tức bỏ thành Thăng Long rút lui về nước, cũng bằng con đường dọc theo sông Hồng. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ đã bị lực lượng các dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc do Hà Bổng chỉ huy tập kích.

Toàn bộ cuộc chiến lần thứ nhất chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, với chỉ khoảng 3-4 trận đánh lớn. Quân Mông Cổ bị thiệt hại nặng, mất từ quá nửa cho tới khoảng 4/5 quân số. Theo Nguyên sử, khi tiến vào đất Tống, đoàn quân Mông Cổ chỉ còn lại 3.000 kị binh Mông Cổ và 1 vạn quân Đại Lý[3] Sau thất bại tại Đại Việt, quân Mông Cổ phải tìm đường khác để tấn công Tống từ phía nam.

Vì sao quân Mông Cổ đẩy mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bại?

1. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần I năm 1258

- Giai đoạn đầu thế kỷ XIII: nhà nước Mông Cổ đưa ra sách lược tấn công và xâm chiếm nước Đại Việt ta để làm bước đệm thực hiện gọng kìm tiến lên phía Nam Trung Quốc để tiêu diệt Nam Tống.

- Khi này, nhà Trần đã ra lệnh bắt giam sứ giả Mông Cổ để thể hiện quyết tâm kiên quyết chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó, vua quan nhà Trần còn đưa ra lệnh sắm sửa vũ khí và thành lập quân đội, dân binh, ngày đêm tập luyện.

- Vào tháng 1/1258, quân đội Mông Cổ chính thức bước vào nước ta qua đường sông Thao với 3 vạn quân do Ngột Lương Hợp Thai dẫn đầu. Tuy nhiên, đi đến Bình Lệ Nguyên thì đã bị chặn lại. Tiếp đó, quân Mông Cổ lại tiếp tục đánh vào Thăng Long khiến nhà Trần tạm rút khỏi đây để nhường chỗ cho kế sách “vườn không nhà trống”.

- Khi này, quân đội Mông Cổ với chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh đã rơi vào trạng thái thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Nắm bắt cơ hội này, quân đội ta đã mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu, đánh cho địch phải rút khỏi Thăng Long chạy về nước vào ngày 29/01/1258.

2. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285

- Tiếp sau cuộc chiến tranh chống quân Mông Cổ, quân đội ta lại tiếp tục phải đối đầu với âm mưu xâm lược Chăm Pa và Đại Việt của nhà Nguyên. Mục đích của quân Nguyên khi này đó là lấy Chăm Pa và Đại Việt ta làm cầu nối để tiến vào các tỉnh phía Nam Trung Quốc.

- Khi này, nắm bắt được âm mưu của nhà Nguyên, vua quan nhà Trần đã tổ chức hội nghị tại bến Bình Than để bàn kế sách đánh giặc và Trần Quốc Tuấn được cử làm chỉ huy cuộc kháng chiến.

- Tiếp đó, năm 1285, hội nghị Diên Hồng lại tiếp tục được mở tại Thăng Long, triệu tập các bô lão để bàn cách đánh giặc. Kế đó, cả nước ta đã cùng chung tay tổ chức tập trận, duyệt binh và trấn giữ tại những nơi hiểm yếu, các quân sĩ đều thích vào tay hai chữ Sát Thát để thể hiện quyết tâm đánh đuổi giặc Nguyên của mình.

- Vào tháng 1/1285, 50 vạn quân Nguyên đã tràn vào xâm lược nước ta. Tuy nhiên, với tinh thần quả cảm, lòng dũng cảm và mưu trí của mình, quân ta đã chặn đánh địch ở biên giới, tiếp đó rút về Vạn Kiếp, Thăng Long và cuối cùng rút về Thiên Trường để thực hiện kế “vườn không nhà trống”.

- Khi này, một đội quần khác từ Chăm Pa cũng đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa nhằm tạo thế gọng kìm tiêu diệt quân ta nhưng vẫn thất bại và buộc phải rút về Thăng Long và rơi vào tình trạng thiếu lương thực. Và đến 5/1285, quân đội nhà Trần đã tổ chức phản công đánh cho quân giặc phần bị chết, phần phải chạy về nước còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để về nước, Toa Đô thì bị chém đầu.

Ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông

Chiến tranh Mông Nguyên - Đại Việt [hay kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên] là cuộc chiến bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới sự dẫn dắt của vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Thời gian kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288 nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ khoảng 9 tháng, chia làm 3 đợt.

Thời điểm tấn công nước ta, đế chế Mông Cổ [Nguyên - Mông] đang ở đỉnh cao khi cai trị vùng đất rộng đến hơn 24 triệu km2, thống trị khoảng 100 triệu dân trải dài từ châu Á sang tận Đông Âu. Song cả 3 lần tấn công nước ta đạo quân tàn bạo đó đều bị chặn đứng bởi quân dân nhà Trần.

Theo ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, cuộc xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất nằm trong kế hoạch chinh phạt lớn của đế chế Mông Cổ. Theo tính toán của Mông Kha, chiếm được Đại Việt thì sẽ tạo ra bàn đạp để chiếm Nam Tống và chiếm hoàn toàn phía Nam Trung Quốc.

Sự hung hãn của đoàn kỵ binh quân Nguyên Mông

Ở lần tấn công đầu tiên, Mông Cổ huy động 5.000 kỵ, 20.000 quân Đại Lý thông thạo địa hình rừng núi giáp vùng biên cương Đại Việt. Hai bên giao chiến ở Bình Lệ Nguyên và quân Mông Nguyên thảm bại.

Sau lần chạm trán đầu, nhà Trần rút quân chiến lược, tránh đối đầu trực tiếp với quân địch đang hừng hực khí thế, trước khi đánh bại chúng ở Đông Bộ Đầu vào ngày 29/1/1258. Vó ngựa Mông - Nguyên chinh phục khắp châu Á đã lần đầu tiên gục ngã trước Hào khí Đông A.

Vào đầu năm 1284, vua Nguyên triều đại người Mông Cổ thành lập sau khi xâm chiếm Trung Quốc] lại sai Thoát Hoan mang đội quân đông đảo và thiện chiến xuống phía Nam. Sau khi vượt biên qua biên giới, quân Mông Nguyên lại bại trận ở một số nơi nhưng sức chiến đấu vẫn hừng hực nên Trần Quốc Tuấn quyết định rút quân chiến lược về Vạn Kiếp.

Tháng 2/1285, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem binh thuyền tấn công Vạn Kiếp. Sau đó tổ chức bao vây 10.000 quân ta tại Bình Than. Một trận thủy chiến lớn diễn ra tại đây.

Sau trận này, quân ta rút về đóng ở sông Hồng, tập trung thủy quân và xây dựng các chiến lũy bằng gỗ trên bờ nam để cầm chân quân Nguyên, tạo thời gian cho việc sơ tán quân dân khỏi kinh thành theo kế sách "vườn không nhà trống".

Tháng 3/1285, một cánh quân Nguyên khác do Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh thốc vào phía nam Đại Việt. Quân ta đón đánh quân địch ở Toa Đô [Nghệ An]. Do chênh lệch lực lượng nên quân ta phải rút về vùng biển ở Quảng Ninh, Hải Phòng rồi lại đi vào Thanh Hóa.

Lần rút lui chiến lược về Vạn Kiếp

Ở Thanh Hóa, vua Trần chỉnh đốn quân đội. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chia đại quân thành nhiều mũi để thực hiện tổng phản công. Dưới sự thống lĩnh của Trần Quốc Tuấn, các cánh quân liên tiếp đại thắng, giải phóng Thăng Long.

Đến ngày 24/6/1285, quân ta đánh cánh quân Toa Đô tại Tây Kết. Toa Đô bị chém chết tại trận, hơn 50.000 quân Nguyên bị bắt, tịch thu vũ khí. Cùng thời điểm, Trần Quốc Tuấn mở nhiều cuộc tấn công bên bở sông Hồng, quét sạch cánh quân của Thoát Hoan khỏi bờ cõi nước ta.

Thất bại lần thứ 2 này khiến Hốt Tất Liệt vô cùng căm phẫn. Hoàng đế nhà Nguyên lại huy động hàng trăm nghìn quân lính và chiến thuyền tiếp tục tấn công nước ta lần thứ 3.

Vào tháng 12/1287, quân thủy bộ nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến vào Đại Việt. Tháng 2/1288, quân Nguyên đánh phá Thăng Long. Lúc này, quân ta lại thực hiện chiến thuật "vườn không nhà trống". Ở Thăng Long, không có lực lượng khiến Thoát Hoan vô cùng lúng túng.

Đến cuối tháng 3/1288, Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi nước ta. Dưới sự chỉ huy của nhà vua và Trần Quốc Tuấn, quân ta tiêu diệt toàn bộ quân Nguyên ở Bạch Đằng vào tháng 4/1288.

Một ngày trước khi trận Bạch Đằng diễn ra, quân Nguyên bắt đầu rút từ Vạn Kiếp lên Lạng Sơn. Quân Đại Việt liên tục phục kích, chặn đánh làm quân Nguyên tổn thất rất lớn.

Đến ngày 19/4/1288, quân Nguyên bị đánh bật hoàn toàn khỏi Đại Việt. 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên kết thúc.

Vì sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bài ?

  • In bài này
  • Gửi Email bài này
Chi tiết Chuyên mục: Bài 14 phần 1: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên [Thế kỉ XIII]

- Quân Mông Cổ mạnh nhưng quân ta có ý chí kiên quyết, đoàn kết.

- Quân ta thực hiện chính sách "vườn không nhà trống", biết tận dụng thời cơ mở cuộc phản công nên cuộc kháng chiến giành thắng lợi.

[Nguồn: trang 57 sgk Lịch Sử 7:]

Video liên quan

Chủ Đề