Cảm nhận về bài ca dao Khăn thương nhớ ai ngắn nhất

Bài Khăn thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ thương người mình yêu da diết của một cô gái. Với đề bài cảm nhận bài thơ, đây là bài cảm nhận của một học sinh lớp 10 trường THPT chuyên Hùng Vương, Phú Thọ.

Hướng dẫn

Mở bài Cảm nhận của anh chị về bài Khăn thương nhớ ai

Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt,

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Bài thơ được viết theo thể bốn chữ và kết thúc bằng hai câu lục bát rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu khôn nguôi. Những lo phiền chất chứa trong lòng cũng xuất phát từ niềm thương nhớ ấy.

Thân bài Cảm nhận của anh chị về bài Khăn thương nhớ ai ngữ văn 10

Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài này, nó lại được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói bằng những hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn.

Xưa kia, cái khăn thường là ki vật để trao duyên, gợi nhớ đến người yêu đang xa cách:

Gửi khăn, gửi ảo, gửi lời,

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.

Hay

Nhớ khi khăn mở, trầu trao,

Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình.

Các tác giả dân gian mượn ngoại vật là cái khăn, cái đèn đã được nhân hoá và con mắt là hoán dụ để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình. Rõ ràng mục đích của nhà thơ bình dân là biến cái khăn, cái đèn, đôi mầt thành biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của người con gái đang yêu.

Sáu câu thơ cấu trúc theo lối vắt dòng láy lại sáu lần từ Khăn ở vị trí đầu câu và láy lại ba lần câu hỏi thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Đó là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều: Khăn rơi xuống đất, Khăn vắt lên vai, Khăn chùi nước mắt và biểu hiện trong mọi suy nghĩ, hành động, khiến cô gái bồn chồn, khắc khoải như đứng đống lửa, như ngồi đống than và rơi nước mắt.

Sáu câu thơ hỏi khăn gồm 24 chữ, thì đã có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, gợi nỗi thương nhớ người yêu đến cháy lòng của cô gái. Tuy vậy, cô vẫn biết kìm nén dòng cảm xúc đang dâng trào trong tâm hồn.

Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian. Nỗi nhớ được tiếp tục gửi vào ngọn đèn: Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Chừng nào ngọn lửa tình yêu vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia vẫn sáng thâu đêm. Đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng? Nếu trên kia, cái khăn đã biết giãi bày, thì ở đây, ngọn đèn cũng biết thổ lộ. Nó nói với chúng ta nhiều điều không có trong lời ca…

Cuối cùng, cô gái hỏi chính đôi mất của mình. Dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu chăng nữa thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh được mượn làm cái cớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Đến đây, dường như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình: Mất thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Nỗi nhớ thương nặng trĩu, cho nên: Đêm nằm lưng chẳng tới giường. Cứ nhắm mắt vào, hình ảnh người thương lại hiện ra, ngủ làm sao cho được! Ở trên là đèn không tắt thì ở đây Mắt ngủ không yên. Hình tượng thơ thật hợp lí, nhất quán và tự nhiên như tình yêu và niềm thương nỗi nhớ của cô gái.

Nếu tâm trạng cô gái trong những câu thơ bốn chữ được diễn tả bằng hình thức gián tiếp thì đến hai câu lục bát cuối cùng nó đã được giãi bày trực tiếp, ở trên, nỗi nhớ còn được che giấu ít nhiều bằng những hình ảnh có tính chất tượng trưng thì đến đây trái tim đã tự thốt lên Iời.

Tâm trạng lo phiền của cô gái cũng xuất phát từ cội nguồn thương nhớ. Cô Lo vì một nỗi không yên một bề. Một nỗi, một bề mà hoá thành rất nhiểu vấn vương, thao thức. Cô gái lo cho chàng trai hay lo rằng chàng trai không yêu thương mình tha thiết như mình đã yêu thương chàng? Đây cũng là tâm trạng phổ biến của những cô gái đang yêu.

Nỗi nhớ được nói đến dồn dập trong 10 câu thơ 4 chữ, chỉ có lời hỏi mả không có lời đáp. Nhưng câu trả lời đã được giản tiếp khẳng định trong năm điệp khúc thương nhớ ai vang mãi không dứt như một niềm khắc khoải để rồi cuối cùng trào ra thành một niềm lo âu thực sự cho hạnh phúc lứa đôi:

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt, lãng mạn bay bổng tới đâu chăng nữa cũng gắn bó với đời thường mà đời thường vốn lại nhiều dâu bể. Bởi thế mà Cô gái nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Vì sao vậy? Phải đặt bài ca này vào cuộc sống của người phụ nữ xưa và trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân và gia đình thì ta mới thấy hết ý nghĩa của hai câu kết, hạnh phúc lứa đôi của họ thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến hôn nhân.

Kết luận Cảm nhận của anh chị về bài Khăn thương nhớ ai

Mặc dầu vậy, bài ca dao vẫn là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương. Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa

Từ khóa tìm kiếm:

Cảm nhận của anh chị về bài khăn thương nhớ ai

Cảm nhận về bài ca dao khăn thương nhớ ai

Cam nhan ve bai ca dao khan thuong nho ai

Phân tích bài khăn thương nhớ ai ngữ văn 10

Cảm nghĩ về bài ca dao khăn thương nhớ ai

Phat bieu cam nghi ve bai ca dao khan thuong nho ai

Khăn thương nhớ ai

Đề bài: Em hay nêu cảm nghĩ về hình tượng phụ nữ trong bài ca dao “Khăn thương nhớ ai…”

Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Nó là sản phẩm của khối óc và bà tay của người lao động Việt Nam. Họ bày tỏ tấm lòng mình và gửi gắm những tình cảm, mơ ước, hoài bão … trong từng câu chữ. “Khăn thương nhớ ai” là một bài ca dao như vậy.

Cảm nhận về bài ca dao Khăn thương nhớ ai ngắn nhất

Cảm nghĩ về hình tượng phụ nữ trong bài ca dao “Khăn thương nhớ ai…

Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. mà không dễ bộc lộ.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Ngày xưa, chiếc khăn thường là vật được dùng để trao duyên. Vì vậy, khi cầm chiếc khăn trên tay thường gọi nhớ đến những kỉ niệm bên người yêu. “Khăn thương nhớ ai” – câu thơ được lặp lai 3 lần tạo nên một nối nhớ triền mien, da diết. Hỏi khăn nhưng thực ra người con gái đang hỏi chính mình. Khăn “thương nhớ”,  “rơi xuống”, “vắt lên”, “chùi nước mắt”- đó là hình ảnh của cô gái nhớ người yêu đến ngẩn ngơ, lo lắng, phải khốc thầm lặng lẽ. Đèn cũng vì thế mà mang tâm trạng của người con gái:

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt.

Hình ảnh đèn gợi cho ta liên tưởng tới cảnh một người con gái ngày đêm vò võ trong nỗi nhớ thương. Nỗi thương nhớ khôn nguôi như ngọn đèn kia cứ mãi không chịu tắt. Nhưng dù có mượn đèn, mượn khăn cũng không thể diễn tả hết nỗi nhớ:

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đôi mắt vốn là cửa sổ của tâm hồn. Mắt của cô chập chờn như ánh đèn kia, thao thức nhớ mong. Điệp ngữ “thương nhớ ai” một lần nữa được xuất hiện như xoáy vào một nỗi niềm khắc khoải, da diết. Từ “ai” là một đại từ phiếm chỉ, được lặp lại nhiều lần tạo một khoảng không bao la ngập tràn nỗi nhớ. Người con gái biết đó là “ai” nhưng vẫn cứ hỏi, cứ băn khoăn. Không có lời đáp lại, như ngngười đọc vẫn biết được đó là tâm trạng nhớ mong người yêu da diết, mãnh liệt nhưng vẫn rát thầm kín.

Không còn hỏi nữa, cô gái mang trong mình những nỗi âu lo, muộn phiền:

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Tưởng chừng như nỗi nhớ đó sẽ kéo dài đến vô tận, nhưng thực chất lại được dồn nén lại vì “những nỗi lo phiền”: lo cho người yêu, lo về duyên phận của mình. Cô lo “không yên một bề” – một nỗi lo rất phổ biến của người phụ nữ đương thời. Họ lo cho hạnh phúc lứa đôi rồi cũng sẽ có lúc gặp trắc trở, dù ngay cả khi tình yêu vẫn còn đnag nồng nàn, da diết.

Lời ca dao dung dị với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi đã tạo nên một nét đẹp rất mộc mạc, truyền thống của tình yêu đôi lứa. Qua nõi nhớ và niềm lo âu trong bài, người đọc có thể cảm nhận được tình yêu và khát vọng được yêu của những người dân chân chất xưa.

Những bài văn chọn lọc lớp 10 VĂN MẪU LỚP 10 LỚP 10 

BÀI LÀM

Ca dao cổ truyền Việt Nam có nhiều khúc, nhiều câu diễn tả nỗi nhớ của con người ở mọi cảnh huống, mọi lứa tuổi, nhưng nhiều nhất vẫn là nỗi nhớ của những đôi lứa đang yêu:

– Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

– Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.

– Nhở ai ra ngấn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?

Nhưng nhớ mà cứ kể mãi rằng nhớ thì có phần nhiều lời quá chăng? Bởi thế, bài ca Khăn thương nhớ ai dường như có một vị trí riêng trong ca dao về nỗi nhớ.

Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Đó là nỗi nhớ thương đến tan chảy cả cõi lòng nhưng không tự bộc lộ một cách buông tuồng dễ dãi. Đó cũng là tâm trạng nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, cứ hiện hình dần lên và sáng mãi ra từ trong cõi nhớ của riêng mình cô gái, hẳn là nhớ thương phải bồn chồn lắm, nên cô mới hỏi dồn dập đến vậy: hỏi khăn, hỏi đèn, rồi hỏi cả mắt mình nữa! Những câu hỏi không có câu trả lời liên tiếp cất lên như nén chặt nỗi thương nhớ trong lòng, để rồi cuối cùng trào ra bằng một niềm lo âu mênh mông cho hạnh phúc lứa đôi của mình:

Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề…

Cái khăn được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất, trong 6 câu thơ (tức nửa bài ca). Cũng đúng thôi, giống như cái áo, cái khăn đội đầu hoặc cái khăn tay, thường là vật trao duyên, vật kỉ niệm gợi nhớ người đàng xa (Gửi khăn, gửi áo, gửi lời, Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa; Nhớ khi khăn mơ trầu trao, Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình…) Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng lấy lại 6 lần từ khăn ở vị trí đầu câu thơ và lấy lại 3 lần khăn thương nhớ ai như một điệp khúc, làm cho nỗi nhớ càng thêm triền miên da diết: Sầu đong càng lắc càng đầy. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Cổ nhiên, cái khăn không tự nó làm nên chuyện. Nhưng đằng sau tất cả sự sống, lên, rơi, vắt (trong nghệ thuật đảo thanh và cách sử dụng hình ảnh vận động trái chiều nhau) của cái khăn kia là một con người hiện lên rất rõ trong tâm trạng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nhớ đến mức không còn tự chủ được cả bước đi dáng đứng, ra ngẩn vào ngơ, nhớ đến mức khăn vắt lên vai, khăn rơi xuống đất thì phải là một nhớ đằm sâu. Đó là nỗi nhớ có không gian. Cái không gian trải ra trên nhiều chiều (khăn vắt lên vai, khăn rơi xuống đất, khăn chùi nước mắt), còn nỗi nhớ thì quanh quất ở mọi hướng, khiến cho con người không thể đứng lâu yên ổn được (Như đứng đống lửa, như ngôi đống than). Và nỗi nhớ ấy đã dẫn đến cảnh khóc thầm khăn chùi nước mắt. Biết bao cô gái đã khóc thầm như thế trong ca dao thuở xưa:

Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt dầm dầm trong mưa. 

Sáu câu thơ hỏi khăn, 24 chữ, thì đã có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, làm cho nỗi nhớ thương càng thêm bâng khuâng, da diết mà vẫn man mác, nhẹ nhàng. Nỗi nhớ bên trong réo thúc bằng sôi nhưng được nói ra thật ý vị, ngọt ngào. Đó là nỗi nhớ mang màu sắc nữ tính, nói lên nhân cách của một người nhớ mà biết trân trọng nâng niu nỗi nhớ, biết ghìm lại nỗi nhớ kín đáo trong lòng mình. (Đây cũng là kiểu nhân vật trữ tình phổ biến trong các khúc hát giao duyên Việt Nam).

Như vậy là, với 6 câu thơ đầu, nỗi nhớ đã lan tỏa vào không gian, thấm đượm vào không gian. Nhưng không chỉ có thế. Nỗi nhớ ở đây còn được đo theo thời gian: từ nỗi nhớ ban ngày đã chuyển sang nỗi nhớ ban đêm. Ca dao có nhiều câu hát về nỗi nhớ ban đêm: Nửa đêm trở dậy trông trời… Đêm qua ra đứng bờ ao…: Đêm khuya thắp chút dầu dư…; Ai đi đường ấy bao xa/ Để em ôm bóng trăng tà năm canh… Ở bài ca này có một diễn tả riêng, nhất quán và độc đáo. Nhớ từ ngày sang đêm, từ tấm khăn đến ngọn đèn… là nỗi nhớ theo thời gian (Đèn thương nhớ ai; Mà đèn chẳng tắt). Điều này cũng có tính ước lệ, nó chứng tỏ bài ca là sự thu hút những câu hát lẻ vào trong hệ thống. Và trong cái khoảng ưu tư vò võ của đêm khuya khắc với canh tàn, thì cái đốm lửa đang cháy sáng trên đầu ngọn bấc kia cũng chính là nỗi nhớ vẫn đang cháy rực lên trong cô gái. Chừng nào ngọn lửa tình (cũng như hạt mưa tình trong ca dao) vẫn cháy sáng trong trái tim của người con gái thì ngọn đèn kia tắt làm sao được? Đèn chẳng tắt hay chính con người đang trằn trọc thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng với thời gian? Vẫn là câu hỏi không có lời đáp nhưng chắc chắn đã có sức đồng vọng mãnh liệt trong tâm hồn chàng trai cũng đang ngôn ngang trăm mối. Và nếu như trên kia, cái khăn biết giãi bày, thì ở đây ngọn đèn cũng biết thổ lộ, nó đã nói với chúng ta nhiều điều không có trong lời ca…

Nhưng dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu, thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hóa. Đến đây, nhưn không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình:

Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.

Nỗi ưu tư còn nặng trĩu. Khối tình vẫn vẹn nguyên. Cho nên đêm nằm lưng chẳng tới giường, cứ nhắm mắt vào, người thương lại hiện lên, ngủ làm sao cho được? Thế thì có phải tại đôi mắt nhớ người thương? Cũng là em, cũng là cô gái đấy thôi, nhưng nỗi nhớ niềm thương lần này được đặt vào đôi con mắt, cái cửa sổ tâm hồn của con người? Ở trên đèn chẳng tắt thì ở đây mắt ngủ không yên: hình tượng thật là hợp lí, nhất quán và tự nhiên như cuộc sống con người, như chính niềm thương nỗi nhớ của cô gái. Không thể có hình tượng nào hay hơn thế nữa.

Nỗi nhớ được nói đến liên tiếp dồn dập trong 10 câu thơ 4 chữ. Cô gái chỉ hỏi mà không có lời đáp. Năm lần hỏi, năm lần từ ai vang lên trong điệp khúc thương nhớ ai xoáy vào trong lòng ta một nỗi niềm khắc khoải. Bản thân từ ai mang ý phiếm chỉ, gợi lên một nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, không có giới hạn. Nhưng người đọc vẫn ngầm hiểu lòng cô gái. Thì còn ai vào đấy nữa, nếu không phải là chàng trai mà cô gái đang bùng lên trong lòng một nỗi nhớ không nguôi. Thành ra hỏi mà không trả lời, nhưng chính câu trả lời đã được khẳng định này mạnh mẽ hơn, lại có ý vị hơn, vì nó cách khẳng định mang tính nghệ thuật. Đó cũng là cách nói của người bình dân trong ca dao như Hoài Thanh đã từng nhận xét: Một phần khá lớn cái hay của ca dao là không nói thẳng vào ý chính cần nói nhưng mấy ai không hiểu ý chính đó của câu ca dao? (Văn nghệ 1 – 1982).

Đoạn thơ còn hay ở cánh gieo vần:

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất  
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai?     
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai    
Mà đèn chẳng tắt      
Mắt thương nhớ ai    
Mắt ngủ không yên.   

Vần chân và vần lưng xen kẽ nhau; Vần ai với thanh bằng và vần ất (ắt) với thanh trắc. Tất cả quyện vào nhau, xoắn quít lấy nhau tạo nên một âm điệu luyến láy liên hoàn khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa như đọng lại, xoáy sâu vào lòng ta, lại vừa như kéo dài ra đến mênh mông vô tận. Đó là nỗi nhớ thương bùng cháy nén lại nhưng rồi lại tản ra bâng khuâng, man mác trong không gian và thời gian… Và cứ theo cái cung cách cấu tứ như thế (Cô gái có thế còn hỏi nữa) thì bài ca sẽ không có kết thúc như nỗi nhớ và sự ưu tư kia còn là đến vô cùng… Bởi thế, lần theo mạch cảm xúc chạy suốt bài ca đến điểm dừng tạm thì niềm thương nhớ ấy lại trào ra thành nỗi lo phiền của cô gái:

Đêm qua em những lo phiền    
Lo vì một nỗi không yên một bề.

Đây không phải là tình yêu và nỗi nhớ thương bình thường. Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, lời ca chuyển sang lục bát, nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, rung động lòng ta bởi một niềm lo âu mênh mông trước hạnh phúc lứa đôi của cô gái. Nhớ thương người yêu nhưng vẫn lo lắng cho số phận của mình, cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Phải đặt bài ca này trong cuộc sống của người phụ nữ ta xưa và trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân và gia đình, ta mới thấy hết ý nghĩa của hai câu kết. Hạnh phúc lứa đôi của họ thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết đâu đã dẫn đến hôn nhân cụ thể, mà vẫn nơm nớp một nỗi lo sợ mênh mông:

Thương anh cũng muốn nói ra    
Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời.

Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà trong phần cuối, bài ca đã hai lần nhắc tới nỗi lo phiền và cũng hai lần nhắc tới nỗi không yên một bề. Chỉ có điều là, qua tâm trạng lo âu đó, ta vẫn nhận ra ở đây một tiếng hát đầy yêu thương và một tấm lòng đòi hỏi phải được yêu thương. Phải chăng đó là lí do khiến cho nỗi nhớ này không hề bị lụy mà vẫn chan chứa tình người, dạt dào sức sống? Vài bài ca vẫn là một khúc hát trữ tình lạc quan của người bình dân Việt Nam thuở xưa…

Chính vì vậy, Khăn thương nhớ ai đã vượt được chặng đường thời gian những mấy ngàn năm đến với chúng ta trong những ngày hôm qua khi con người vẫn đang cần tình yêu, cần những nỗi thương nhớ ngọt ngào và sâu lắng như thế. Nó xứng đáng là một trong những viên ngọc thơ long lanh của người bình dân Việt Nam, như lời nhận xét của nhà phê bình Hoài Thanh về bài ca dao này: Nếu chỉ có hai câu sau cùng thì ta thấy bài thơ hay rồi nhưng là loại hay có thể hiểu được. Còn như hai câu đầu thì hay đến mức cơ hồ không hiểu được không rõ hẳn là nói gì mà vẫn thấy hay. Tôi xem đó là một trong những câu ca dao hay nhất của Việt Nam.