Chính tả là gì đặc điểm của chính tả

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Trong ngôn ngữ học, chính tả của một ngôn ngữ là một hệ thống những quy ước để viết lại một ngôn ngữ, hay ghi chép lại lời nói được cộng đồng người sử dụng chấp nhận một cách chính thức [qua các thể chế của nhà nước] hoặc rộng rãi. Nó bao gồm đánh vần, viết hoa,...

Hầu hết các ngôn ngữ được dùng trong thời hiện đại đều có một hệ thống chính tả, và với hầu hết các ngôn ngữ đó, một hệ thống chính tả tiêu chuẩn đã được phát triển, thường dựa trên nhiều biến thể tiêu chuẩn khác nhau của ngôn ngữ, do đó bao gồm ít phương ngữ hơn văn nói. Đôi khi có thể sẽ có những biến thể trong cùng một hệ thống chính tả của một ngôn ngữ, ví dụ như tiếng Anh, xuất hiện biến thể giữa tiếng Anh-Anh và tiếng Anh-Mỹ. Trong một số tiếng, chính tả được quy định bởi các học viện ngôn ngữ, mặc dù đối với nhiều ngôn ngữ, không có quyền nào như vậy, và chính tả được phát triển một cách tự nhiên hơn.

Kể cả với những ngôn ngữ ra đời muộn hơn, một số lượng lớn những đồng thuận về quy tắc chính tả phát sinh tự nhiên, mặc dù tính nhất quán và chuẩn hóa chỉ được áp dụng khi bị áp đặt theo mẫu.

"Chính tả" là một từ Hán Việt [chữ Hán: 正寫.], trong đó "chính" 正 có nghĩa là đúng, "tả" 寫 có nghĩa là viết, "chính tả" 正寫 dịch sát nghĩa từng chữ là "viết đúng".[1][2]

  • Tính kế thừa
  • Tính tương đối: sai chính tả, lỗi chính tả dùng để chỉ những cách dùng từ khác biệt với quy tắc chung trong cộng đồng người
    • Tính thay đổi theo thời gian: trong một giai đoạn cụ thể [đúng ở giai đoạn này sai ở giai đoạn khác]. Ví dụ: dùm hay giùm,
    • Thay đổi theo văn hóa: trong các cộng đồng văn hóa khác nhau. Ví dụ ngào [Nghệ An] hay nhào trộn [phổ biến] trong me ngào muối ớt, té [miền Bắc] hay chuồn, trốn [phổ biến], chế, ché [tiếng Mường] hay chị
    • Thay đổi theo ngữ cảnh và không gian
  • Chính tả tiếng Việt

  1. ^ “1”.
  2. ^ “2”.

Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chính_tả&oldid=68562053”

Chính tả là sự chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu câu, lối viết hoa...

Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây.

1. Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả thì người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết "ghế", "ghen" không hợp lí và tiết kiệm bằng "gế", "gen" nhưng chỉ có cách viết thứ nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không hợp lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi – lỗi. Đối với chính tả, yêu cầu cao nhất là cách viết thống nhất, thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa phương.

2. Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên nó ít bị thay đổi như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ [như chuẩn ngữ âm, chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp]. Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất ổn định, tính chất cố hữu khá rõ. Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tượng về một cái gì "bất di bất dịch", một tâm lí rất bảo thủ. Chính vì thế mặc dù biết rằng cách viết "iên ngỉ" hợp lí hơn nhưng đối với chúng ta nó rất "gai mắt", khó chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính chất "trường tồn" này mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của ngữ âm. Sự mâu thuẫn giữa ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một trong những nguyên nhân chính làm cho chính tả trở nên rắc rối.

3. Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của mình mà dần dần cũng có một sự biến động nhất định. Do đó, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ: "phẩm zá", "anh zũng" bên cạnh "phẩm giá", "anh dũng", "trau dồi" bên cạnh "trau giồi", "dòng nước" bên cạnh "giòng nước", v.v... tình trạng có nhiều cách viết như vậy đòi hỏi phải tiến hành chuẩn hoá chính tả.

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 119–126.

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Chính tả và một số đặc điểm của chuẩn chính tả Chính tả là sự chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu câu, lối viết hoa... Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây. 1. Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả thì người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết "ghế", "ghen" không hợp lí và tiết kiệm bằng "gế", "gen" nhưng chỉ có cách viết thứ nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí – không hợp lí, hay – dở mà chỉ có sự phân biệt đúng – sai, không lỗi – lỗi. Đối với chính tả, yêu cầu cao nhất là cách viết thống nhất, thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa phương. 2. Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên nó ít bị thay đổi như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ [như chuẩn ngữ âm, chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp]. Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất ổn định, tính chất cố hữu khá rõ. Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tượng về một cái gì "bất di bất dịch", một tâm lí rất bảo thủ. Chính vì thế mặc dù biết rằng cách viết "iên ngỉ" hợp lí hơn nhưng đối với
  2. chúng ta nó rất "gai mắt", khó chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính chất "trường tồn" này mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của ngữ âm. Sự mâu thuẫn giữa ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một trong những nguyên nhân chính làm cho chính tả trở nên rắc rối. 3. Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất cố hữu của mình mà dần dần cũng có một sự biến động nhất định. Do đó, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với nó, ví dụ: "phẩm zá", "anh zũng" bên cạnh "phẩm giá", "anh dũng", "trau dồi" bên cạnh "trau giồi", "dòng nước" bên cạnh "giòng nước", v.v... tình trạng có nhiều cách viết như vậy đòi hỏi phải tiến hành chuẩn hoá chính tả. Vì vậy, những sự phê bình những giải pháp âm vị học một cách quá nặng nề như cuốnNgữ âm tiếng Việt [Đoàn Thiện Thuật] là một điều rất không nên. Âm vị học tiếng Việt mở rộng cho rằng, mỗi một giải pháp âm vị học đã có đề có những hạt nhân chân lí của chúng, đều chứng tỏ một cách tiếp cận của nhà âm vị học đối với thực tế tiếng Việt. Vì vậy, chúng ta nên khai thác những điểm mạnh của giải pháp đó hơn là chúng ta phủ nhận sạch trơn những vấn đề âm vị học mà tiền nhân đã làm. Để có thể dung nạp được tất cả những ý tưởng đó, cần một khung lí thuyết âm vị học đủ bao dung và khai thác được khả năng ứng dụng cho từng giải pháp. Đó chính là lí do ra đời chuyên đề âm vị học tiếng Việt mở rộng. Sự khác biệt giữa /ă/ và /a/ là do sự kết hợp chặt hay lỏng, căng hay lơi giữa nguyên âm ấy với các phụ âm sau nó. Bằng chứng là, trong các âm tiết mở [khi phụ âm cuối là /zero/] không có sự đối lập ngắn/dài ở nguyên âm. Về mặt lí thuyết, đây là một quan điểm học thuật rất tiến bộ bởi vì từ những lí
  3. thuyết rất tiến bộ của Jakobson [1912] đến Goldsmith [1978] thì vấn đề tiếp hợp chỗ nối giữa hai âm đã tạo thành một đặc điểm nét khu biệt trong hệ thống nét khu biệt của âm vị học. Nét này có tên là laxness/tenseness[căng/lơi] hay còn gọi là nét lỏng/chặt mà các cấu âm nguyên âm tiếng Anh có sự thể hiện rất rõ nét.

Page 2

YOMEDIA

Chính tả là sự chuẩn hoá hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu câu, lối viết hoa... Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây. 1. Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả...

21-12-2012 686 33

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề