Hạch chẩm ở đâu

Trên cơ thể một người trưởng thành có khoảng 450 hạch bạch huyết nằm ở nhiều vị trí khác nhau như cổ, nách, bẹn… Những hạch này chứa các tế bào bạch huyết, có vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch của cơ thể. Các hạch bạch huyết ở cổ được chia ra làm nhiều nhóm như hạch dưới hàm, dưới cằm, mang tai, sau tai, các hạch má, hạch vùng chẩm..

Thông thường những hạch này có kích thước nhỏ, trong một số trường hợp chúng trở nên sưng to có thể sờ thấy được. Vậy những nguyên nhân nào gây nên tình trạng này?

Viêm nhiễm vùng đầu cổ

Theo bác sĩ Nguyễn Việt Cường, khoa Khám bệnh, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, các viêm nhiễm vùng đầu cổ như viêm mũi xoang, viêm amidan, viêm họng, viêm lợi, viêm các tuyến nước bọt, viêm da đầu, sâu răng, nhiệt miệng… rất hay gây hạch cổ nổi lên và sưng đau và là nguyên nhân thường gặp nhất đối với hạch cổ to. Các hạch này thường nhỏ lại và biến mất khi tác nhân gây viêm thuyên giảm.

Đặc biệt ở trẻ nhỏ, hệ miễn dịch của các bé đang phát triển, trẻ dễ bị viêm mũi, viêm họng, trẻ đang trong tuổi mọc răng. Đây là nguyên nhân rất phổ biến gây xuất hiện hạch viêm phản ứng trên cổ các bé, khiến cho nhiều phụ huynh lo lắng.

Hạch lao

Nhắc đến bệnh lao hẳn nhiều người sẽ nghĩ ngay đến lao phổi. Tuy nhiên, lao hạch cũng là bệnh lý khá phổ biến, hay gặp nhất ở các vị trí như cổ, nách, bẹn. Hạch lao thường dính với nhau thành chùm, chuỗi, sờ nhẵn, không đau. Bệnh thường khu trú bên trong hạch và ít lây nhiễm từ người bệnh sang người lành, khác với lao phổi.

Nguyên nhân gây bệnh là trực khuẩn lao, điều trị đa phần bằng nội khoa tương tự như lao phổi, dùng các thuốc chuyên khoa lao để ức chế và tiêu diệt tác nhân gây bệnh.

Một số bệnh lành tính vùng cổ

Ngoài những hạch bạch huyết, trên vùng cổ cũng có thể xuất hiện những u hoặc nang lành tính, đôi khi nhầm lẫn với hạch khi sờ nắn. Ví dụ như các u bã, u mỡ, u nang giáp móng, chồi xương... Việc thăm khám và chẩn đoán những bệnh này đòi hỏi bác sỹ có kinh nghiệm và cơ sở y tế chuyên khoa.

Bệnh lý ác tính

Một số bệnh ung thư gây xuất hiện hạch cổ như bệnh u lympho ác tính không Hodgkin, bệnh Hodgkin. Hạch cũng có thể di căn từ các ung thư khác: ung thư trong khoang miệng, ung thư vòm, ung thư họng, ung thư thanh quản, ung thư phổi, ung thư vú... Có khi chỉ có một hạch đơn lẻ, cũng có lúc có nhiều hạch, mềm hay cứng chắc, kích thước đa dạng tùy thuộc vào loại ung thư và giai đoạn.

Để chẩn đoán hạch cổ là lành tính hay ác tính, bác sĩ thường dùng các xét nghiệm phổ biến như xét nghiệm tế bào, sinh thiết hạch làm giải phẫu bệnh.

Như vậy, tình trạng nổi hạch cổ bao gồm cả nguyên nhân lành tính và ung thư. Do đó khi xuất hiện hạch vùng cổ gây sưng đau, hoặc hạch tồn tại lâu ngày không biến mất, bạn cần đến các cơ sở khám chữa bệnh chuyên khoa để được bác sĩ thăm khám và tư vấn cụ thể.

Bệnh lý hạch bạch huyết là sự phì đại có thể sờ thấy của ≥ 1 hạch bạch huyết. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng. Điều trị rối loạn nguyên nhân.

[Xem thêm Tổng quan về Hệ bạch huyết Tổng quan về Hệ bạch huyết .]

Hạch bạch huyết hiện diện khắp cơ thể, nhiều nhất là ở vùng cổ, nách và bẹn; trên đối tượng khỏe mạnh, có thể sở thầy một vài hạch nhỏ [ 1 cm] của ≥ 1 hạch bạch huyết; được phân loại thành

  • Tại chỗ: Khi chỉ xuất hiện tại 1 vùng cơ thể

  • Lan tỏa: Khi có mặt ở ≥ 2 vùng cơ thể

Viêm hạch bạch huyết Viêm hạch bạch huyết Bệnh lý hạch bạch huyết với biểu hiện đau và/hoặc viêm [ví dụ, sưng, đỏ hạch].

Các triệu chứng khác xuất hiện tùy thuộc vào bệnh lý nền.

Sinh lý bệnh

Huyết tương và một số loại tế bào [tế bào ung thư, tế bào vi khuẩn] trong khoảng kẽ, cùng với một số bào quan, kháng nguyên và các dị nguyên đi vào mạch bạch huyết, trở thành dịch bạch huyết. Các hạch bạch huyết thanh lọc dịch bạch huyết trên đường di chuyển vào hệ tĩnh mạch trung tâm, loại bỏ các tế bào và một số thành phần khác. Quá trình lọc cũng trình diện các kháng nguyên với tế bào Lympho trong các hạch. Hiện tượng tân tạo tế bào nằm trong đáp ứng miễn dịch từ các tế bào lympho, từ đó gây [bệnh hạch bạch huyết phản ứng] làm phì đại các hạch. Các dị nguyên gây bệnh trong dịch bạch huyết có thể gây gây ra viêm hạch lympho Viêm hạch bạch huyết , và các tế bào ung thư có thể cư trú và nhân lên trong cac hạch.

Nguyên nhân

Các hạch bạch huyết tham gia vào đáp ứng miễn dịch nên nguyên nhân gây bệnh hạch lympho có thể do viêm nhiễm hay các ung thư [xem bảng Một số nguyên nhân gây nổi hạch Một số nguyên nhân gây bệnh lý hạch bạch huyết ]. Ở đây chỉ bàn đến các nguyên nhân phổ biến hơn. Nguyên nhân có thể thay đổi tùy theo tuổi bệnh nhân, yếu tố nguy cơ và triệu chứng đi kèm, nhưng các nhóm nguyên nhân phổ biến nhất

  • Nguyên phát, tự giới hạn

  • Nhiễm trùng đường hô hấp trên [URI]

  • Nhiễm trùng mô mềm ở tại chỗ

Các nguyên nhân nguy hiểm nhất

  • Ung thư

  • nhiễm HIV

  • Bệnh lao [TB]

Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, hạch to là biểu hiện của các tổn thương lành tính hoặc nhiễm khuẩn tại chỗ rõ rệt trên lâm sàng. Chỉ 2 cm

  • Hạch chảy dịch, cứng hoặc dính vào mô bên dưới

  • Hạch thượng đòn

  • Nguy cơ nhiễm lao hoặc HIV

  • Sốt và gầy sút

  • Lách to

  • Giải thích các dấu hiệu

    Hạch lan tỏa thường là dấu hiệu của bệnh lý hệ thống. Tuy nhiên, bệnh nhân có bệnh lý hạch cục bộ có thể do các nguyên nhân cục bộ và hệ thống [bao gồm cả bệnh thường gây ra tình trạng hạch toàn thân].

    Đôi khi, tiền sử và khám lâm sàng gợi ý nguyên nhân [xem bảng Một số nguyên nhân nổi hạch Một số nguyên nhân gây bệnh lý hạch bạch huyết ] và có thể chẩn đoán ở những bệnh nhận có URI virus rõ ràng hoặc bị nhiễm trùng mô mềm hoặc răng tại chỗ. Trong các trường hợp khác, cần lưu ý tới các phát hiện [như các dấu hiệu cảnh báo], tuy có thể chúng không chỉ điểm một nguyên nhân cụ thể nào.

    Các hạch cứng, phì đại rõ [> 2 đến 2,5 cm], hoặc dính với các mô lân cận, đặc biệt là các hạch trong vùng hố thượng đòn hoặc ở những bệnh nhân có tiền sử hút thuốc, uống rượi lâu năm có thể chỉ điểm ung thư. Dấu hiệu sưng nóng đỏ đau tại 1 hạch duy nhất có thể do viêm hạch nhiễm trùng [ví dụ do tụ cầu hoặc liên cầu].

    Sốt là dấu hiệu có thể xuất hiện trong nhiều bệnh truyền nhiễm, ác tính và bệnh lý mô liên kết. Lách to là dấu hiệu có thể xuất hiện trong bệnh bạch cầu đơn nhân, nhiễm toxoplasma, bạch cầu cấp và u lympho. Trong lao và ung thư, bệnh nhân có thể có gầy sút cân. Các yếu tố nguy cơ và tiền sử phơi nhiễm là các yếu tố gợi ý tốt nhất.

    Bệnh nhân có thể có bệnh lý hạch do căn nguyên nguy hiểm, dù họ không có bất cứ biểu hiện bệnh lý nào khác.

    Xét nghiệm

    Nếu nghi ngờ mắc bệnh lý đặc hiệu nào đó [ví dụ như bệnh tăng bạch cầu đơn nhân ở bệnh nhân trẻ tuổi có sốt, đau họng và lách to], cần làm các xét nghiệm ban đầu để chẩn đoán xác địnhxem bảng Một số nguyên nhân nổi hạch Một số nguyên nhân gây bệnh lý hạch bạch huyết .

    Nếu tiền sử và thăm khám lâm sàng không định hướng đến nguyên nhân cụ thể, cần đánh giá sâu hơn dựa vào tính chất hạch và các triệu chứng khác.

    Bệnh nhân có dấu hiệu cảnh báo và dấu hiệu hạch toàn thân nên được làm công thức máu, XQ ngực. Nếu công thức máu có số lượng bạch cầu bất thường, thực hiện kỹ thuật phân tích tế bào theo dòng chảy và phiến đồ máu ngoại vi để đánh giá dòng bạch cầu hoặc lympho. Đối với các bệnh lý toàn thân, thường tiến hành test lao trên da [hoặc xét nghiệm phát hiện gamma interferon-gamma] và các xét nghiệm huyết thanh học tìm HIV, bệnh tăng bạch cầu đơn nhân và bệnh toxoplasma và giang mai. Bệnh nhân có các triệu chứng nổi ban hay đau các khớp nên được làm kháng thể kháng nhân để loại trừ lupus ban đỏ hệ thống.

    Bệnh nhân có dấu hiệu hạch to và không có triệu chứng gì khác có thể chỉ cần theo dõi trong 3 đến 4 tuần, trừ khi nghi ngờ mắc ung thư. Nếu nghi ngờ ung thư, bệnh nhân thường cần làm sinh thiết hạch [bệnh nhân có khối ở cổ Khối ở cổ cần được đánh giá kỹ hơn trước khi sinh thiết]. Xét nghiệm sinh thiết cũng được chỉ định nếu bệnh nhân bị bệnh lý hạch toàn thân hoặc tại chỗ không khỏi trong 3 đến 4 tuần.

    Điều trị

    Điều trị cơ bản là theo nguyên nhân; bản thân hạch to không cần điều trị. Điều trị thử bằng corticosteroid không được khuyến cáo cho bệnh lý hạch không rõ nguyên nhân vì corticosteroids có thể làm giảm triệu chứng tại hạch trong bệnh leucemia và u lymphom và làm chậm quá trình chẩn đoán, đồng thời nó có thể làm bùng phát lao. Không có chỉ định điều trị thử bằng kháng sinh, trừ khi nghi ngờ nhiễm trùng hạch bạch huyết.

    Những điểm chính

    • Hầu hết các trường hợp là tự phát và tự giới hạn, hoặc do nguyên nhân tại chỗ có biểu hiện lâm sàng rõ

    • Nên tiến hành các xét nghiệm ban đầu nếu có dấu hiệu cờ đỏ, nếu các biểu hiện khác hoặc các yếu tố nguy cơ gợi ý bệnh lý cụ thể hoặc khi bệnh lý hạch toàn thân không có nguyên nhân rõ ràng.

    • Bệnh nhân có biểu hiện tại hạch mang tính cục bộ cấp tính và không có các triệu chứng khác, có thể được theo dõi trong 3 đến 4 tuần, sau đó cân nhắc sinh thiết.

    Video liên quan

    Chủ Đề