Hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh là gì

Kháng kháng sinh là gì?

Kháng kháng sinh là khả năng của các vi sinh vật [vi khuẩn, vi rút, nấm hoặc ký sinh trùng] sinh trưởng với sự hiển diện của một loại thuốc mà thông thường có thể giết chết hoặc hạn chế sự phát triển của chúng. Kết quả là các liệu pháp điều trị thông thường trở nên không hiệu quả. Nhiễm trùng do đó trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến thời gian bị bệnh lâu hơn, chi phí điều trị cao hơn và nguy cơ tử vong cao hơn.  Do kháng kháng sinh, nên ngày càng có nhiều các bệnh nhiễm trùng thông thường như viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu, bệnh lao và các bệnh do thực phẩm gây nên càng trở nên khó điều trị hơn và đôi khi không thể điều trị được dẫn đến tình trạng tử vong do tình trạng đa kháng. 

Tại sao vi khuẩn lại kháng được thuốc kháng sinh?

Để trả lời câu hỏi trên, từ lâu các nhà khoa học đã đi sâu vào nghiên cứu cơ chế kháng lại các kháng sinh của vi khuẩn. và cho thấy Vi khuẩn dù rất bé nhỏ nhưng lại có muôn vàn phương kế để đối phó với con người, hầu như chúng ta luôn chạy theo sau vi khuẩn. Các kháng sinh mới, đắt tiền, vừa được đưa vào sử dụng rộng rãi thì ngay sau đó không lâu đã xuất hiện các chủng vi khuẩn kháng lại kháng sinh đó. Có rất nhiều cách để vi khuẩn làm mất tác dụng của kháng sinh, nhưng gộp chung có 3 nhóm nguyên nhân chính vi khuẩn có thể luôn luôn thay đổi thích nghi để tồn tại đó chính là:

Vi khuẩn có cách để làm hạn chế việc xâm nhập của các kháng sinh vào bên trong tế bào vi khuẩn, dẫn đến kháng sinh sẽ ít có cơ hội tác động để tiêu diệt vi khuẩn. Ở nhóm nguyên nhân này, vi khuẩn có thể gia tăng củng cố các màng bảo vệ của chúng, ví dụ như màng ngoài ở các vi khuẩn gram âm hoặc sử dụng các bơm đẩy từ bên trong tế bào để bơm kháng sinh ra ngoài như ở trực khuẩn mủ xanh. Nói dễ hiểu, ở nhóm nguyên nhân này, vi khuẩn dùng “áo giáp” và bơm công suất lớn để đẩy kháng sinh ra ngoài.

Vi khuẩn còn sản xuất ra các men [enzymes] để phá huỷ các kháng sinh. Có thể nói, khi các kháng sinh đủ mạnh để phá vỡ “áo giáp” của vi khuẩn, và không bị bơm ra ngoài, thì vi khuẩn sẽ sử dụng “hoá chất” để phá huỷ cấu trúc của kháng sinh. Cuối cùng, vi khuẩn có thể che chắn hoặc làm biến đổi các đích tác động của kháng sinh, làm mất hiệu lực của kháng sinh. Hiện tượng này là do nguồn gốc từ các đột biến gen trên nhiễm sắc thể hoặc plasmide bên trong tế bào vi khuẩn. Chẳng hạn, đối với nhóm kháng sinh beta-lactam, muốn tiêu diệt vi khuẩn thì kháng sinh này phải bám vào được các đích tác động đó là các PBP [protein gắn penicillin]. Việc giảm áp lực của các PBP với các thuốc nhóm beta – lactam có thể do đột biến gen ở nhiễm sắc thể, hoặc do mắc phải gen bên ngoài các các PBP mới thông qua các plasmids.

Đôi khi Vi khuẩn sử dụng đủ các loại vũ khí từ hoá học, sinh học đến vật lý học để chống lại các kháng sinh mà loài người tạo ra để tiêu diệt chúng. Vi khuẩn luôn biến đổi nhanh chóng để thích nghi và tồn tại ở môi trường mới.

Nguyên nhân gây lên tình trạng  kháng kháng sinh:

    Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh đang rất lo ngại hiện nay, tuy nhiên có thể tổng kết ở những nguyên nhân chính sau:

    Nguyên nhân  thứ nhất, đó là dùng quá nhiều kháng sinh kể cả cho những trường hợp không cần thiết. Tỷ trọng dùng kháng sinh ở Việt Nam là tương đối lớn. Theo thống kê, tỷ lệ dùng thuốc kháng sinh ở các bệnh viện ở nước ta cao hơn khoảng gấp 3 lần, thậm chí cao gấp 10 lần so với bệnh viện cùng cấp, cùng số lượng giường bệnh so với các nước đang phát triển. Theo thông tin từ WHO, bằng chứng cho thấy 88–97% các cửa hàng bán thuốc kê kháng sinh mà không có đơn thuốc của bác sĩ mặc dù điều này đã bị cấm theo luật pháp Việt Nam.

    Nguyên nhân thứ hai là đã dùng nhiều kháng sinh và dùng không hợp lý. Điều này có cả ở cộng đồng và ngoài cộng đồng cùng với sự không hợp lý của cán bộ y tế từ liều dùng, sự phối hợp kháng sinh, thời gian dùng… Khi sử dụng không hợp lý dẫn đến sự kháng kháng sinh xảy ra ngày càng nhiều. Một nghiên cứu tiến hành tại các bệnh viện Việt Nam cho thấy một phần ba số bệnh nhân nội trú đã sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý trong quá trình nhập viện. Điểm tồn tại lớn nhất trong sử dụng kháng sinh hiện nay là sử dụng trong trường hợp chưa có biểu hiện của nhiễm khuẩn. Chúng ta lẫn lộn giữa nhiễm vi rút và nhiễm vi khuẩn, vì thế chúng ta mắc sai lầm là chúng ta điều trị bao vây hơn là điều trị theo đúng mục tiêu.

    Nguyên nhân thứ ba nữa là đã dùng rồi, nếu phải dùng điều trị quyết liệt có nhiễm khuẩn thực sự thì chúng ta lại e ngại liều dùng về mặt tác dụng phụ, tức là e ngại con có uống nhiều kháng sinh quá hay không, nên liều chúng ta tự gia giảm. Ví dụ bác sĩ cho uống 3 lần/ ngày, chúng ta chỉ cho uống 2 lần sáng tối và bỏ luôn liều ở giữa, khi các cháu đỡ một chút, chúng ta lại tự cắt kháng sinh sớm. Vì thế, tồn tại hiện nay là chúng ta có dùng kháng sinh, nhưng tại sao hiệu quả lại không được như mình mong muốn và tình trạng vi khuẩn kháng thuốc ngày càng cao “đơn giản vì chúng ta đã tôi luyện vi khuẩn trong một môi trường không đúng cách chúng ta dùng nó không đúng cách” – PGS-TS Hoàng Anh nói.

Tình trạng kháng kháng sinh hiện nay:

   Tình trạng kháng kháng sinh ở Việt Nam đang ở mức đáng báo động với sự xuất hiện của loại siêu vi khuẩn kháng tất cả loại thuốc. Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] đã xếp Việt Nam vào da­nh sách các quốc gia có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới. Điều đáng nói là thói quen tự ý mua và sử dụng thuốc của nhiều người dân khiến tình trạng này ngày càng trầm trọng.

   Kháng kháng sinh là mối đe dọa sức khỏe cộng động trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuốc sống của người dân và sự phát triển tổng thể, bền vững của cả một quốc gia. Việt Nam là một trong những các quốc gia, trong những năm gần đây đã phải chứng kiến mối đe dọa ngày càng gia tăng của kháng kháng sinh, do việc sử dụng kháng sinh không hợp lý tại các cấp của hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong nuôi trồng thủy sản, trong chăn nuôi và trong cộng đồng.

   Tình trạng kháng kháng sinh ở Việt Nam đang ở mức đáng báo động với sự xuất hiện của loại siêu vi khuẩn kháng tất cả loại thuốc. Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] đã xếp Việt Nam vào da­nh sách các quốc gia có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới. Điều đáng nói là thói quen tự ý mua và sử dụng thuốc của nhiều người dân khiến tình trạng này ngày càng trầm trọng.

   Kháng kháng sinh là mối đe dọa sức khỏe cộng động trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuốc sống của người dân và sự phát triển tổng thể, bền vững của cả một quốc gia. Việt Nam là một trong những các quốc gia, trong những năm gần đây đã phải chứng kiến mối đe dọa ngày càng gia tăng của kháng kháng sinh, do việc sử dụng kháng sinh không hợp lý tại các cấp của hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong nuôi trồng thủy sản, trong chăn nuôi và trong cộng đồng. Kháng kháng sinh là mối đe dọa sức khỏe cộng động trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuốc sống của người dân và sự phát triển tổng thể, bền vững của cả một quốc gia. Việt Nam là một trong những các quốc gia, trong những năm gần đây đã phải chứng kiến mối đe dọa ngày càng gia tăng của kháng kháng sinh, do việc sử dụng kháng sinh không hợp lý tại các cấp của hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong nuôi trồng thủy sản, trong chăn nuôi và trong cộng đồng.

Làm sao để hạn chế vi khuẩn kháng thuốc?

  Sự kháng thuốc kháng sinh xét về bản chất là do việc sử dụng kháng sinh không đúng gây ra. Theo những quan điểm tiến hoá, sự kháng thuốc sẽ xảy ra dần dần, vì vi khuẩn phải có thời gian để đột biến. Nhưng chính sự sử dụng kháng sinh không đúng đã làm cho hiện tượng đột biến xảy ra nhanh hơn, mạnh hơn và thời gian kháng thuốc sẽ ngắn dần. Để phòng ngừa kháng kháng sinh, ngoài sự quy chuẩn của y tế, thì chính bản thân người bệnh là những người quyết định đến vận mệnh chống nhiễm trùng của mình nhất.

Để tránh tình trạng  kháng kháng sinh người dân không được lạm dụng thuốc kháng sinh như một thuốc thông thường. Theo tổ chức y tế thế giới khuyến cáo “khi phải sử dụng kháng sinh, tốt nhất là điều trị bệnh theo kết quả của kháng sinh đồ”, trong trường hợp chưa hoặc không có kết quả của kháng sinh đồ thì có thể sử dụng kháng sinh theo các nguyên tắc sau:

1. Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị bệnh nhiễm khuẩn. Chỉ có thầy thuốc điều trị dựa vào kinh nghiệm chữa bệnh, dựa vào xét nghiệm, làm kháng sinh đồ mới xác định được có nhiễm khuẩn hay không?

2. Phải chọn đúng loại kháng sinh Nếu chọn dùng kháng sinh không đúng loại bệnh thuốc sẽ không có hiệu quả.

3. Phải có sự hiểu biết về thể trạng người bệnh. Ðặc biệt đối với các phụ nữ có thai, người già, người bị suy gan, suy thận, chỉ có thầy thuốc điều trị mới có đủ thẩm quyền cho sử dụng kháng sinh.

4. Phải dùng kháng sinh đúng liều đúng cách.

5. Phải dùng kháng sinh đủ thời gian. Tùy theo loại bệnh và tình trạng bệnh thời gian dùng kháng sinh có khi dài khi ngắn nhưng thông thường là không dưới 5 ngày.

6. Chỉ phối hợp nhiều loại kháng sinh khi thật cần thiết.

7. Phòng ngừa bằng thuốc kháng sinh phải thật hợp lý. Chỉ có những trường hợp đặc biệt thầy thuốc mới cho dùng thuốc kháng sinh gọi là phòng ngừa. Thí dụ, dùng kháng sinh phòng ngừa trong phẫu thuật do nguy cơ nhiễm khuẩn hậu phẫu. Hoặc người bị viêm nội mạc tim đã chữa khỏi vẫn phải dùng kháng sinh để ngừa tái nhiễm.

BSCKI. Hồ Thị Phi Nga – Trưởng khoa Hóa sinh – vi sinh

Trong lâm sàng hiệu quả kháng sinh chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm

Kháng sinh diệt vi khuẩn. Thuốc kháng vi khuẩn sẽ làm chậm hoặc ngừng sự phát triển của vi khuẩn trong ống nghiệm. Những định nghĩa này không tuyệt đối; thuốc diệt khuẩn có thể giết chết một số loài vi khuẩn nhạy cảm, và các loại thuốc diệt khuẩn chỉ có thể ức chế sự phát triển của một số loài vi khuẩn nhạy cảm. Các phương pháp định lượng chính xác hơn xác định nồng độ in vitro tối thiểu mà kháng sinh có thể ức chế sự tăng trưởng [nồng độ ức chế tối thiểu, MIC] hoặc giết chết vi khuẩn [nồng độ diệt khuẩn tối thiểu MBC]. Thuốc kháng sinh có hoạt tính diệt khuẩn có thể cải thiện việc tiêu diệt vi khuẩn khi cơ chế bảo vệ cơ thể bị khiếm khuyết ở cơ quan nhiễm trùng [ví dụ như trong viêm màng não hoặc viêm nội tâm mạc] hoặc có hệ thống [ví dụ ở những bệnh nhân giảm bạch cầu trung tính hoặc suy giảm miễn dịch theo cách khác]. Tuy nhiên, có những dữ liệu lâm sàng hạn chế chỉ ra rằng một loại thuốc diệt khuẩn nên được lựa chọn trên một loại thuốc diệt khuẩn đơn giản dựa trên sự phân loại đó. Lựa chọn thuốc cho hiệu quả tối ưu nên dựa trên cách nồng độ thuốc thay đổi theo thời gian liên quan đến MIC hơn là liệu thuốc có hoạt tính diệt khuẩn hay không.

  • Phụ thuộc vào nồng độ: Cường độ theo đó nồng độ đỉnh vượt quá MIC [thường được biểu thị bằng tỷ số đỉnh-MIC] tương quan tốt nhất với hoạt tính kháng khuẩn

  • Phụ thuộc vào thời gian: Thời gian của khoảng thời gian dùng thuốc trong đó nồng độ kháng sinh vượt quá MIC [thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm thời gian trên MIC] tương quan tốt nhất với hoạt tính kháng khuẩn

  • Phụ thuộc vào tiếp xúc: Lượng thuốc liên quan đến MIC [lượng thuốc là 24 giờ dưới đường cong nồng độ [AUC24]; tỷ lệ AUC24-MIC tương ứng tốt nhất với hoạt tính kháng khuẩn]

Aminoglycosides Aminoglycosides , fluoroquinolones Fluoroquinolones và daptomycin Daptomycin có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào nồng độ. Tăng nồng độ của chúng từ các mức hơi cao hơn MIC đến các mức cao hơn MIC làm tăng tỷ lệ và mức độ hoạt động diệt khuẩn của chúng. Ngoài ra, nếu nồng độ vượt quá MIC thậm chí một thời gian ngắn, aminoglycosides và fluoroquinolones có hiệu ứng sau kháng sinh [PAE] trên vi khuẩn còn lại; thời gian PAE cũng phụ thuộc vào nồng độ. Nếu PAE dài, mức độ thuốc có thể thấp hơn MIC trong thời gian dài mà không làm giảm hiệu quả, cho phép dùng ít thường xuyên hơn. Do đó, aminoglycosides và fluoroquinolones thường có hiệu quả nhất như boluses không liên tục mà đạt đến mức độ huyết thanh miễn phí cao điểm 10 lần MIC của vi khuẩn; thông thường, mức đáy không quan trọng.

Beta-Lactam β-Lactam , clarithromycin và erythromycin có hoạt tính diệt khuẩn theo thời gian. Tăng nồng độ của chúng trên MIC không làm tăng hoạt tính diệt khuẩn, và việc giết chết cơ thể của chúng nói chung chậm. Ngoài ra, vì Không áp dụng hoặc rất ngắn ức chế sự phát triển của vi khuẩn sau khi nồng độ giảm xuống dưới MIC [tác dụng hậu kháng sinh], beta-lactam thường có hiệu quả nhất khi nồng độ thuốc trong huyết thanh [thuốc không liên quan đến protein huyết thanh] cao hơn MIC 50% thời gian. Bởi vì ceftriaxone có thời gian bán thải huyết thanh dài [khoảng 8 giờ], nồng độ tự do tự miễn dịch vượt quá MIC của các mầm bệnh rất dễ bị nhiễm bệnh trong suốt khoảng thời gian dùng 24 giờ. Tuy nhiên, đối với beta-lactam có thời gian bán hủy huyết thanh 2 giờ, cần phải dùng liều thường xuyên hoặc tiêm truyền liên tục để tối ưu hóa thời gian trên MIC.

Hầu hết các thuốc kháng sinh có hoạt tính kháng khuẩn phụ thuộc vào phơi nhiễm, đặc trưng bởi tỷ lệ AUC-MIC. Vancomycin, tetracyclines, và clindamycin là những ví dụ.

Có 3 thông số dược động học/dược lực học liên quan đến hiệu quả kháng khuẩn:

  • Tỷ lệ nồng độ đỉnh trong huyết thanh

  • Phần trăm thời gian trên MIC

Video liên quan

Chủ Đề