Khoảng cách Trái Đất bao nhiêu km?

Trái Đất và các hành tinh hàng xóm, cùng các tiểu hành tinh, hành tinh lùn, thiên thạch, sao chổi... thuộc hệ Mặt Trời [Thái Dương hệ] với Mặt Trời là trung tâm của hệ này. Các nhà thiên văn học sử dụng một đơn vị đo để đo khoảng cách giữa các thiên thể trong hệ Mặt Trời, được gọi là AU [Astronomical Unit], hay nghĩa tiếng Việt là Đơn vị Thiên văn.

Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời là 149.597.870.700 mét [149,6 triệu km].


Đơn vị thiên văn [AU] là khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời. Một đơn vị thiên văn bằng với khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, là 149.597.870.700 mét [149,6 triệu km]. Các nhà thiên văn học sử dụng đơn vị này để đo khoảng cách giữa các thiên thể trong hệ Mặt Trời. Thí dụ khoảng cách từ Mặt Trời tới Mộc Tinh là 5,2 AU trong khi Hải Vương Tinh cách Mặt Trời tới 30,07 AU.

Tuy nhiên như bạn cũng đã biết, quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời không phải là một đường tròn hoàn hảo tuyệt đối, nó là một hình ellip. Nên trong một năm, có lúc Trái Đất tới gần Mặt Trời, lúc thì lại ra xa.

Điểm trên quỹ đạo mà Trái Đất tới gần Mặt Trời nhất gọi là Điểm cận nhật, khoảng cách khoảng 146 triệu cây số và vào tháng 1 hằng năm Trái Đất sẽ tới điểm này. Điểm trên quỹ đạo mà Trái Đất xa ra Mặt Trời nhất được gọi là Điểm viễn nhật, khoảng cách khoảng 152 triệu cây số và vào tháng 7 hằng năm Trái Đất sẽ tới điểm này.




Đơn vị thiên văn [AU] là khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời.

Trong lịch sử đã ghi nhận, nhà thiên văn và toán học Aristarchus của [đảo] Samos người Hy Lạp là người đầu tiên đo khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời vào khoảng năm 250 trước Công nguyên. Và vào thời hiện đại, nhà thiên văn học Christiaan Huygens người Hòa Lan đã đo khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời vào năm 1653.

Ông Huygens sử dụng các pha của Kim Tinh để tìm kiếm các góc trong tam giác Kim Tinh - Trái Đất - Mặt Trời. Thí dụ, khi Kim Tinh xuất hiện lúc được Mặt Trời rọi sáng một nửa, 3 thiên thể hình thành một tam giác đều nhìn từ Trái Đất. Phỏng đoán kích thước của Kim Tinh [một cách vô tình nhưng lại chính xác], ông Huygens đã có thể xác định khoảng cách từ Kim Tinh tới Trái Đất, và khi biết được khoảng cách đó, cộng với các góc của tam giác, ông đã có thể đo được khoảng cách tới Mặt Trời. Tuy nhiên, vì phương pháp của Huygens một phần là sản phẩm mang tính suy đoán và không hoàn toàn dựa trên căn cứ khoa học nên không được tín nhiệm.

Năm 1672, nhà toán học và thiên văn học Giovanni Cassini người Ý đã sử dụng một phương pháp bao gồm cả thị sai, hay sai số góc, để tìm khoảng cách tới Hỏa Tinh và đồng thời tính toán ra khoảng cách tới Mặt Trời. Ông đã gởi một người đồng nghiệp là Jean Richer tới vùng Guiana thuộc Pháp trong khi bản thân ông ở Paris. Họ đã đo đạc vị trí tương đối của Hỏa Tinh với các ngôi sao khác và lập lưới tam giác những kết quả đo đạc này với khoảng cách đã biết giữa Paris và Guiana. Một khi nắm được khoảng cách tới Sao Hỏa, họ cũng có thể tính toán được khoảng cách tới Mặt Trời. Vì các phương pháp của Cassini mang tính khoa học hơn nên được tin cậy.

Tháng 8/2012, Hiệp hội Thiên văn học Quốc tế [IAU] chánh thức xác nhận con số 149.597.870.700 mét cho mỗi Đơn vị thiên văn. Con số này dựa trên tốc độ của ánh sáng, một khoảng cách xác định. Một mét được định nghĩa là khoảng cách mà ánh sáng di chuyển được trong một môi trường chân không trong 1 phần 299.792.458 giây.
Theo vutrutrongtamtay

Khoảng cách trung bình từ Mặt Trăng đến Trái Đất là 384.403 kilômét. Đường kính Mặt Trăng là 3.476 kilômét.

Từ giữa năm 1969 đến 1972, chương trình Apollo của Hoa Kỳ đã đưa 12 người lên Mặt Trăng, người đầu tiên là Neil Armstrong và Buzz Aldrin trong Apollo 11. Trước đó, Mặt Trăng đã là mục tiêu của nhiều cuộc đổ bộ và thám hiểm vòng quanh của các tàu vũ trụ, bắt đầu với tàu Luna 1 của Xô viết năm 1959.

Mô tả hiện nay
Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trên một quỹ đạo gần như một quỹ đạo tròn. Nó cần khoảng một tháng để quay một vòng quanh quỹ đạo. Mỗi giờ, Mặt Trăng di chuyển so với nền sao một cung có độ lớn xấp xỉ bằng đường kính góc của nó tức là khoảng 0,5°.
Khí quyển
Mặt Trăng có bầu khí quyển cực mỏng. Nguồn chính tạo các phân tử lơ lửng trên bề mặt là sự thải ra chất khí từ đất đá bên trong lòng, như radon. Một nguồn khác là gió mặt trời, bị bắt tạm thời bởi trọng trường của Mặt Trăng. Các khí từ nguồn này không tồn tại lâu trên bề mặt Mặt Trăng mà thoát ra dần dần. Khi bề mặt Mặt Trăng tiếp xúc với ánh nắng Mặt Trời, nhiệt độ tăng lên đến chừng vài chục độ C, đủ để cung cấp cho các phân tử khí tốc độ trung bình của chuyển động nhiệt lớn hơn tốc độ vũ trụ cấp 2 của Mặt Trăng, vốn nhỏ do trọng trường yếu của thiên thể, và các chất khí thoát khỏi Mặt Trăng vĩnh viễn.

Do gần như không có bầu khí quyển, trên Mặt Trăng không có các hiện tượng khí tượng như gió, bão hay sự xói mòn bề mặt. Các vị trí trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như giữ được trạng thái nguyên thủy của nó cho đến khi bị một thiên thạch bắn phá.

Khi nhìn từ cực Bắc xuống, Trái Đất và Mặt Trăng quay quanh khối tâm của hệ, một điểm cách tâm Trái Đất chỉ 4700 km, ngược chiều kim đồng hồ, cùng chiều với chiều quay của Trái Đất quanh Mặt Trời.

Khác với hầu hết các vệ tinh tự nhiên của các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời, Mặt Trăng có mặt phẳng quỹ đạo nằm gần với mặt phẳng hoàng đạo chứ không gần mặt phẳng xích đạo của hành tinh [Trái Đất]. Mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng khoảng 5° so với mặt phẳng hoàng đạo. Giao điểm của hai mặt phẳng này trên thiên cầu là 2 điểm nút mặt trăng.

Hiện tượng nhật thực và nguyệt thực chỉ xảy ra khi Trái Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời thẳng hàng.

Nhật thực xảy ra khi Mặt Trăng nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời. Lúc đó Mặt Trăng trên mặt phẳng hoàng đạo, tại một trong hai điểm nút mặt trăng, đồng thời ở vào pha trăng mới [mồng một âm lịch, hay sóc lịch].
Xem chi tiết: Nhật thực
Nguyệt thực xảy ra khi Trái Đất nằm giữa Mặt Trời và Mặt Trăng. Lúc đó Mặt Trăng trên mặt phẳng hoàng đạo, tại một trong hai điểm nút mặt trăng, đồng thời ở vào pha trăng tròn [rằm âm lịch].
Biến đổi theo thời gian
Các tham số quỹ đạo của Mặt Trăng thay đổi chậm theo thời gian, chủ yếu do tác động của lực thủy triều giữa Mặt Trăng và Trái Đất. Lực hấp dẫn của Mặt Trăng bóp méo thủy quyển trên Trái Đất, gây ra thủy triều. Chu kỳ lên xuống của thủy triều trùng với chu kỳ Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, nhưng thủy triều bị trễ pha so với Mặt Trăng. Sự trễ pha này gây ra bởi việc Trái Đất tự quay quanh trục, và bề mặt cứng của nó gây ma sát cho thủy quyển. Kết quả là, một phần mômen động lượng tự quay của Trái Đất được chuyển dần sang cho mômen động lượng quỹ đạo của Mặt Trăng. Mặt Trăng dần đi xa ra khỏi Trái Đất, tốc độ ra xa hiện nay khoảng 38 mm một năm. Đồng thời Trái Đất cũng quay chậm lại, ngày trên Trái Đất sẽ dài thêm ra 15 µs mỗi năm.

Lực thủy triều trong quá khứ cũng đã làm chậm chuyển động tự quay của Mặt Trăng lại. Đến ngày nay, tốc độ tự quay này đã chậm lại đến một giá trị cân bằng đặc biệt, khiến Mặt Trăng đi vào trạng thái quay đồng bộ, tức là luôn hướng một mặt về Trái Đất: tốc độ góc tự quay đúng bằng tốc độ góc quay trên quỹ đạo.

Thực ra quỹ đạo Mặt Trăng không tròn tuyệt đối [có độ lệch tâm dương] và việc nói Mặt Trăng luôn quay một mặt về phía Trái Đất cũng là gần đúng. Mặt Trăng, như mọi vật chuyển động trên quỹ đạo Kepler, chuyển động nhanh hơn ở cận điểm quỹ đạo và chậm hơn ở viễn điểm quỹ đạo. Điều này giúp ta thấy thêm khoảng 8 kinh độ mặt bên kia của Mặt Trăng. Ngoài ra, quỹ đạo Mặt Trăng cũng nghiêng so với mặt phẳng xích đạo của Trái Đất, nên ta cũng thấy thêm 7 vĩ độ mặt bên kia. Cuối cùng, Mặt Trăng nằm đủ gần để một người quan sát ở xích đạo suốt một đêm, sau khi di chuyển khoảng cách bằng đường kính Trái Đất nhờ sự tự quay của Trái Đất, nhìn được thêm 1 kinh độ mặt bên kia.

Chủ Đề