Những đặc điểm của dsl digital subscriber line là gì

Đường thuê bao số (DSL) là một công nghệ dữ liệu vận chuyển cao băng thông qua một đường dây điện thoại đơn giản mà được kết nối trực tiếp với một modem. Điều này cho phép chia sẻ tập tin, và việc truyền hình ảnh và đồ họa, dữ liệu đa phương tiện, hội nghị âm thanh và video và nhiều hơn nữa. DSL sử dụng các phương tiện tương tự, đó là sự gián đoạn đáng tin cậy và ngăn ngừa và mất gói nặng. DSL là nhanh chóng và cung cấp tốc độ thuê bao sử dụng thấp.

Xem thêm: Thuật ngữ công nghệ A-Z

Giải thích ý nghĩa

DSL ban đầu là một phần của Integrated Services Digital Network (ISD) đặc điểm kỹ thuật được giới thiệu vào năm 1984. Ban đầu, ISDN đã được sử dụng cho các kết nối point-to-point cho các loại khác nhau của việc chia sẻ dữ liệu. Với việc thông qua thời gian và kích thước ngày càng tăng của mạng lưới, ISDN đã đưa ra một tốc độ dữ liệu thấp vì các vấn đề khác nhau, từ sự gián đoạn trong đường dây điện thoại với các yếu tố tự nhiên như sương mù và mưa. Sau sự thất bại của ISDN, DSL nổi lên và bắt đầu cung cấp các kết nối băng thông rộng trên một phương tiện tương tự với một môi trường mạng hiệu quả. DSL chủ yếu sử dụng dây đồng và cáp quang như phương tiện truyền dẫn của nó.

What is the Digital Subscriber Line (DSL)? - Definition

Digital subscriber line (DSL) is a technology that transports high-bandwidth data over a simple telephone line that is directly connected to a modem. This allows for file-sharing, and the transmission of pictures and graphics, multimedia data, audio and video conferencing and much more. DSL uses the analog medium, which is reliable and prevents interruptions and heavy packet loss. DSL is fast and provides low user subscription rates.

Understanding the Digital Subscriber Line (DSL)

DSL was originally part of the Integrated Services Digital Network (ISD) specification introduced in 1984. In the beginning, ISDN was being used for point-to-point connections for different kinds of data sharing. With the passage of time and the increasing size of networks, ISDN gave a low data speed because of various issues, from interruptions in telephone lines to natural factors like fog and rain. After the failure of ISDN, DSL emerged and started providing broadband connections over an analog medium with an efficient network environment. DSL mainly uses copper wires and fiber optic cables as its transmission medium.

Trước đây, đường dây điện thoại chỉ có thể truyền 1 kênh thoại băng tần 3,4 kHz. Nhờ áp dụng các công nghệ xử lý số, bù suy hao, giảm nhiễu… mà công nghệ xDSL có thể truyền 100 kênh thoại số hay 1 kênh video chất lượng cao trên 1 đường dây điện thoại. DSL (digital subscriber line ) là một công nghệ sử dụng các phương pháp điều biến phức tạp, chuyển các dữ liệu thành các gói để truyền tải trên dây điện thoại.

Modem số DSL theo một cách khác sẽ truyền tải dữ liệu giữa hai điểm đầu cuối của đường cáp đồng. Tín hiệu sẽ không đi qua hệ thống chuyển mạch điện thoại, và do đó không gây nhiễu đến tín hiệu thoại. Trên thực tế, băng tần thoại trên cáp đồng chỉ là 0 - 4 kHz, trong khi công nghệ DSL thường dùng tần số trên 100 kHz.

Ưu điểm lớn của công nghệ xDSL khi ra đời chính là khả năng truyền tải được nhiều ứng dụng khác nhau mà trước đây chưa thực hiện được, đồng thời lại tận dụng được mạng điện thoại sẵn có và rộng khắp. Một công nghệ mới ra đời được coi là hiệu quả khi tận dụng được các tài nguyên, và cơ sở hạ tầng sẵn có.

Những đặc điểm của dsl digital subscriber line là gì

xDSL được phân loại như sau:

ISDN - Integrated Services Digital Network (Mạng số tích hợp đa dịch vụ)

ISDN được coi sự mở đầu của xDSL. ISDN ra đời vào năm 1976 với tham vọng thống nhất cho truyền dữ liệu và thoại. Trong ISDN, tốc độ giao tiếp cơ sở (BRI-Basic Rate Interface) cung cấp 2 kênh 64kbps (kênh B) dành cho thoại hoặc dữ liệu và một kênh 16kbps (kênh D) dành cho các thông tin báo hiệu điều khiển. Nhược điểm của công nghệ là chỉ truyền dịch vụ thoại và chuyển mạch gói tốc độ thấp. Nó không thích hợp cho chuyển mạch gói tốc độ cao và thời gian chiếm giữ lâu dài. Chính điều này là đặc điểm của mạng Internet hiện nay. Do đó, ISDN không được áp dụng rộng rãi mà chỉ áp dụng cho các gia đình hoặc doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, với những người sử dụng ISDN tại Mỹ (quê hương của ISDN) thì cũng khó quên được các lợi ích mà ISDN đem lại khi ma ISDN là công nghệ mở đầu cho tất cả các loại dịch vụ tích hợp. IDSL - ISDN digital subscriber line – là một công nghệ xDSL dựa trên nền tảng là ISDN, được đảm bảo tốc độ 144Kbps trên cả kênh B và D.

HDSL - high-bit-rate digital subscriber line

HDSL ra đời trong phòng thí nghiệm vào năm 1986. Thực chất các thiết bị thu phát HSDL là sự kế thừa của ISDN nhưng ở mức độ phức tạp hơn. HDSL ra đời dựa trên chuẩn T1/E1 của Mỹ/châu Âu. HDSL1 cho phép truyền 1,544Mbps hoặc 2,048Mbps trên 2 hay 3 đôi dây. HDSL2 ra đời sau đó cho phép dùng 1 đôi dây để truyền 1,544Mbps đối xứng. HDSL2 ra đời mang nhiều ý tưởng của ADSL. Ưu thể của HDSL là loại công nghệ không cần các trạm lặp, tức là có độ suy hao thấp hơn các loại khác trên đường truyền. Do vậy HDSL có thể truyền xa hơn mà vẫn đảm bảo được chất lượng tín hiệu. HDSL được ưa dùng do có các đặc tính chuẩn đoán nhiễu (đo SNR) và ít gây nhiễu xuyên âm. HDSL được dùng bởi các nhà khai thác nội hạt (các công ty điện thoại) hay cung cấp các đường tốc độ cao giữa nhiều tòa nhà hay các khu công sở với nhau

VDSL - very-high-bit-rate digital subscriber line

VDSL là một công nghệ xDSL cung cấp đường truyền đối xứng trên một đôi dây đồng. Dòng bit tải xuống của VDSL là cao nhất trong tất cả các công nghệ của xDSL, đạt tới 52Mbps, dòng tải lên có thể đạt 2.3 Mbps. VDSL thường chỉ hoạt động tốt trong các mạng mạch vòng ngắn. VDSL dùng cáp quang để truyền dẫn là chủ yếu, và chỉ dùng cáp đồng ở phía đầu cuối.

ADSL - Asymmetrical DSL

ADSL chính là một nhánh của công nghệ xDSL. ADSL cung cấp một băng thông không đối xứng trên một đôi dây. Thuật ngữ không đối xứng ở đây để chỉ sự không cân bằng trong dòng dữ liệu tải xuống (download) và tải lên (upload). Dòng dữ liệu tải xuống có băng thông lớn hơn băng thông dòng dữ liệu tải lên. ADSL ra đời vào năm 1989 trong phòng thí nghiệm. ADSL1 cung cấp 1,5 Mbps cho đường dữ liệu tải xuống và 16 kbps cho đường đường dữ tải lên, hỗ trợ chuẩn MPEG-1. ADSL2 có thể cung cấp băng thông tới 3 Mbps cho đường xuống và 16 kbps cho đường lên, hỗ trợ 2 dòng MPEG-1. ADSL 3 có thể cung cấp 6 Mbps cho đường xuống và ít nhất 64 kbps cho đường lên, hỗ trợ chuẩn MPEG-2. Dịch vụ ADSL mà chúng ta hay sử dụng hiện nay theo lý thuyết có thể cung cấp cung cấp 8 Mbps cho đường xuống và 2 Mbps cho đường lên, tuy nhiên vì nhiều lý do từ phía các ISP nên chất lượng dịch vụ sử dụng ADSL tại các đầu cuối của chúng ta thường không đạt được như sự quảng cáo ban đầu.