Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình đánh giá đội ngũ theo chuẩn nghề nghiệp

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CHUẨN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN MẦM NON VÀO ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [152.66 KB, 12 trang ]

BÁO CÁO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP “ HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CHUẨN NGHỀ
NGHIỆP GIÁO VIÊN MẦM NON VÀO ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN”
Họ và tên: Nguyễn Thị Sáu
Đơn vị: Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
Bậc học Mầm non vô cùng quan trọng
“Trẻ em như búp trên cành
Được ăn được học được hành là ngoan”
Trẻ em có trở thành những chủ nhân của đất Nước được hay không cũng là
công lao vô cùng to lớn của toàn thể đội ngũ giáo mầm non, cháu có là bé ngoan –
cháu ngoan Bác Hồ, bé sáng tạo, bé khéo tay, có rèn luyện nề nếp trong mọi ứng
xử, giao tiếp, vui chơi để từ đó phát triển toàn diện nhân cách của trẻ có được hay
không là nhờ vào sự yêu ngành yêu nghề như các cô giáo mầm non từ lâu đã có câu
nói “ Cô giáo như mẹ hiền” cô giáo là người mẹ thứ hai của các cháu, vun đắp xây
dựng tương lai cho các cháu.
Hơn nữa với quan điểm “Đổi mới căn bản, toàn diện nền Giáo dục và Đào
tạo của Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đánh giá Chuẩn nghề
nghiệp của đội ngũ giáo viên là khâu then chốt”.
Hướng dẫn áp dụng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non vào đánh giá giáo
viên, cương vị là quản lý ngành học nên tôi tổ chức các biện pháp để giúp cho giáo
viên và hiệu trưởng trường mầm non và áp dụng Chuẩn vào đánh giá, xếp loại giáo
viên mầm non. Giúp giáo viên nắm được nội dung Chuẩn để tự đánh giá năng lực
nghề nghiệp của bản thân, trên cơ sở đó xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học, tự
rèn luyện nâng cao năng lực nghề nghiệp, đồng thời hiệu trưởng các trường mầm
Trang 1
non nắm vững Chuẩn để đánh giá năng lực nghề nghiệp của giáo viên một cách
khách quan và chính xác.
Vì vậy trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, để cho các cô giáo được hoàn


thiện hơn, việc hướng dẫn chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non vào đánh giá giáo
viên là vô cùng cần thiết, đây cũng là điểm mấu chốt để nhận thức đúng về người
giáo viên, trong quá trình chăm sóc giáo dục. Do đó là người quản lý ngành học tôi
thấy việc có nhiều băn khoăn để đánh giá Chuẩn nghề nghiệp giáo vên mầm non
một cách đúng đắn sát với thực tế hơn. Nên tôi chọn đề tài “Hướng dẫn áp dụng
chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non vào đánh giá giáo viên” ở các trường
mầm non, mẫu giáo trong huyện và toàn ngành học được tốt hơn.
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN SÁNG KIẾN:
1. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi:
Tất cả giáo viên đều yêu ngành, yêu nghề, không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn của mình, tích cực tham gia học hỏi, tìm tòi khám phá.
Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ
Được tham gia đầy đủ các buổi học tập chuyên môn do ngành tổ chức.
Qua buổi học chuyên môn các giáo viên thảo luận đóng góp các ý kiến nhiệt
tình để tìm ra các minh chứng khi đánh giá.
* Khó khăn:
Nhiều minh chứng áp dụng vào thực tế còn khó khăn
Một số cán bộ quản lý và giáo viện chưa nhận thức đúng đắn về việc đánh
giá, xếp loại theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non đánh giá còn cả nể, thiếu
tính khách quan.
Đồ dùng các phòng chức năng chưa có, chỗ ở, phương tiện đi lại còn nhiều
khó khăn cho giáo viên. Với cương vị là người phụ trách về ngành học cho nên tôi
cũng tìm tòi học hỏi và hiểu biết của mình tôi đưa ra một số biện pháp hướng dẫn
thực hiện như sau:
2. Các biện pháp
Biện pháp 1: Hướng dẫn nội dung đánh giá tiêu chuẩn xếp loại
Trang 2
Ngay từ đầu năm được sự thống nhất của lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào
tạo tôi triệu tập cán bộ, giáo viên mở lớp tập huấn và giành thời gian là một ngày

với nội dung thứ nhất “Hướng dẫn nội dung đánh giá tiêu chuẩn xếp loại” chúng
ta phải nắm được các nội dung sau: Nội dung đánh giá, tiêu chuẩn chuẩn xếp loại,
các trường hợp xem xét cụ thể, phân loại giáo viên sau đánh giá, quy trình đánh giá
xếp loại.
Qua nội dung trên giáo viên phải luôn giữ gìn đạo đức nhân cách lối sống
lành mạnh trong sáng, của giáo viên, tinh thần đoàn kết, tính trung thực trong công
tác, quan hệ động nghiệp thái độ phục vụ nhân dân và trẻ tốt.
Khối lượng chất lượng, hiệu quả giảng dạy và công tác trong từng vị trí từng
thời gian và từng điều kiện công tác cụ thể, tinh thần học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ ý tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong giảng dạy và
công tác, phê bình và tự phê bình, phát triển về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực
sáng tạo, hoạt động xã hội, giáo viên phải lưu trữ, sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng các
loại hồ sơ minh chứng để xếp loại minh chứng được dễ dàng hơn.
Biện pháp 2: Hướng dẫn cán bộ, giáo viên nắm được tiêu chuẩn xếp loại
Tôi triển khai trong buổi học tập chuyên môn là mỗi giáo giáo viên phải có
quyển vở để ghi chép công việc làm được và không làm được hàng ngày, tuần,
tháng, năm để cuối nắm chúng ta dễ đánh giá và xếp loại.
Như vậy tất cả cán bộ, giáo viên của các cơ sở giáo dục quy định theo quy
chế đều được đánh giá xếp loại chuyên môn, nghiệp vụ định kỳ một lần trong một
năm học ở cấp trường để xếp thành 4 loại; Tốt , khá. Trung bình, kém. Kết quả
đánh giá xếp loại chuyên môn nghiệp vụ giáo viên mầm non là tiêu chuẩn quan
trọng để phân loại giáo viên khi đánh giá.
Biện pháp 3: Hướng dẫn phân loại giáo viên sau khi đánh giá
Chúng ta phải căn cứ vào nội dung đánh giá và tiêu chuẩn xếp loại đưa ra
các minh chứng mà chúng ta đã ghi chép trong sổ tay để dựa vào đây để xếp loại và
xếp theo 4 loại sau:
Loại xuất sắc: Là những giáo viên có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
xếp loại tốt; chuyên môn nghiệp vụ xếp loại tốt.
Trang 3
Loại khá: Là những giáo viên không đủ điều kiện xếp loại khá, đạt các yêu

cầu sau: có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống xếp loại khá; chuyên môn nghiệp
vụ xếp loại khá trở lên.
Loại trung bình: Là những giáo viên không đủ điều kiện xếp loại trung bình,
đạt các yêu cầu sau: có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống xếp loại trung bình;
chuyên môn nghiệp vụ xếp loại trung bình trở lên
Loại kém: Là những giáo viên có trong xếp loại sau đây, phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống xếp loại kém; chuyên môn nghiệp vụ xếp loại kém.
Biện pháp 4: Hướng dẫn quy trìnhđánh giá xếp loại
Việc đánh giá, xếp loại giáo viên được tiến hành và dựa trên cơ sở tìm các
minh chứng thể hiện ở mỗi cá nhân được ghi chép ở trong sổ nhật ký và căn cứ vào
đó để xếp loại theo trình tự sau:
Cá nhân giáo viên viết bản tự nhận xét, đánh giá, xếp loại theo nội dung đánh
giá tiêu chuẩn xếp loại quy định theo quy chế, nhưng quan trọng nhất giáo viên phải
đưa ra được các minh chứng cụ thể.
Tập thể tổ chuyên môn nơi giáo viên làm việc tham gia góp ý và ghi ý kiến
nhận xét của tổ vào bản tự nhận xét của tổ vào bản tự nhận xét, đánh giá của cá
nhân mình.
Người Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục trực tiếp đánh giá, xếp loại giáo viên
theo từng nội dung quy định, quy chế.
Người giáo viên có quyền được trình bày ý kiến của mình, bảo lưu ý kiến tự
đánh giá nhưng phải chấp hành ý kết luận của cơ quản lý có thẩm quyền.
Người Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục ghi rõ kết quả đánh giá, vào bản tự
đánh giá, xếp loại của giáo viên và được lưu hàng năm vào hồ sơ cán bộ của giáo
viên.
Biện pháp 5: Hướng dẫn tìm hiểu về các nội dung, tiêu chí
Tôi đưa ra trong buổi học tập chuyên môn đầu năm quán triệt giáo viên
phải tham gia đầy đủ các buổi học chính trị và nhận thức đúng đắn về tư tưởng
chính trị.
Tham gia học tập, nghiên cứu các Nghị quyết của Đảng, chủ trương chính
sách của Nhà nước.

Trang 4
Yêu nghề, tận tụy với nghề, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành
nhiệm vụ.
Giáo dục trẻ yêu thương, lễ phép với ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi, thân
thiện với bạn bè và biết yêu quê hương đất nước.
Tham gia các hoạt động xây dựng bảo vệ quê hương đất nước góp phần
phát triển đời sống kinh tế, văn hóa cộng đồng.
Người giáo viên mầm non, với tư cách là một công dân, do đó phải chấp
hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quy định của địa phương. Người giáo
viên mầm non, với tư cách là công viên chức nhà nước không chỉ bản than chấp
hành pháp luật, chủ trương chính sách mà còn phải vận động gia đình cùng thực
hiện. Với tư cách là người cô giáo viên Mầm non phải thực hiện giáo dục trẻ chấp
hành pháp luật.
Chấp hành quy chế của ngành, quy định của nhà trường, kỉ luật lao động.
Đây là yêu cầu về mặt ý thức kỉ luật và trách nhiệm trong công tác đối với người
giáo viên nói chung, giáo viên mầm non nói riêng.
Ý thức tổ chức kỷ luật thể hiện ở chỗ, không chấp hành các quy định mà
còn chủ động sáng tạo giải pháp thực hiện, phải chấp hành quy chế của ngành, quy
định của nhà trường tham gia đóng góp xây dựng và thực hiện nội quy các hoạt
động của nhà thực hiện các nhiệm vụ được phân công, chấp hành kỷ luật lao động,
chịu trách nhiệm về chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở các nhóm lớp được phân
công.
Biện pháp 6: Hướng dẫn tìm hiểu về các nội dung, tiêu chí thuộc lĩnh vực
kiến thức.
Ở huyện Ngọc Hiển đa số là Giáo viên mới ra trường chưa hiểu nhiều về đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi mầm non để thực hiện được việc chăm sóc, giáo dục trẻ,
xử lý được các tình huống sư phạm trong qua trình chăm sóc giáo dục trẻ theo độ
tuổi và tư vấn hỗ trợ, hướng dẫn đồng nghiệp về chăm sóc giáo dục phù hợp theo
từng độ tuổi của trẻ. Do đó tôi đã tổ chức lồng ghép và nhấn mạnh trong buổi học
chuyên môn đưa ra cách tìm hiểu về tâm sinh lý của trẻ, giáo viên phải có bằng tốt

nghiệp đúng chuyên ngành đào tạo giáo dục mầm non, nắm vững những kiến thức
trẻ tàn tật, khuyết tật.
Vận động được các kiến thức vào chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp theo độ tuổi
của trẻ ở tại lớp mình phụ trách, trong đó lưu ý đến trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt
Trang 5
có tư vấn hỗ trợ, hướng dẫn đồng nghiệp cách vận dụng được các phương pháp
chăm sóc giáo dục trẻ từ các lứa tuổi khác nhau.
Giáo viên mầm non cần hiểu rõ về mục tiêu, nội dung Chương trình Giáo dục
mầm non để vận dụng lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ theo năm, tháng, tuần
hằng ngày ở lớp mình phụ trách, sắp xếp các hoạt động giáo dục một ngày, chế độ
chăm sóc giáo dục có sự hài hòa hợp lý giữa động và tĩnh, giữa học và chơi.
Giáo viên mầm non nắm được kiến thức về đánh giá sự phát triển của trẻ, sử dụng
được các công cụ đánh giá có sẵn để quan sát , theo dõi sự phát triển của trẻ. Tự
xây dựng được 4 phiếu quan sát đánh giá theo 5 lĩnh vực phù hợp với trẻ các lứa
tuổi khác nhau.
Hiểu biết được về sự an toàn, các cách phòng tránh và xử lý tai nạn cho trẻ.
Xử lý một số tai nạn thương gặp và biết tổ chức sáng tạo môi trường lớp học an
toàn than thiện ở tại lớp mình phụ trách.
Biện pháp 7: Hướng dẫn lập kế hoạch chăm sóc, chăm sóc giáo dục trẻ.
Tôi chỉ đạo cho giáo viên lập kế hoạch, chăm sóc giáo dục trẻ trong một
ngày, một tuần, một tháng, một năm học là bước đầu tiên phải làm để thực hiện quá
trình chăm sóc và giáo dục trẻ, phải nhận thức được kết quả mong đợi của trẻ, sát
với thực tế
Xác định mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ phải là kết quả mà sự chăm sóc,
giáo dục mang lại ở trẻ; là kết quả thao tác mà trẻ có khả năng thực hiện được. Mục
tiêu chăm sóc và giáo dục luôn luôn được diễn đạt từ trẻ. Kết quả mong đợi phải
được mô tả dưới dạng hành vi có thể quan sát được và xác định rõ hoàn cảnh mà
trong đó hành vi được thực hiện, xác định rõ các chỉ tiêu chấp nhận thành tích và
kết quả của trẻ.
Giáo viên phải chuẩn bị các phương tiện dạy học cần thiết cho hoạt động;

chỉ ra các công việc chuẩn bị của trẻ và các phương tiện dạy học cần thiết.
Thiết kế các hoạt động giáo dục theo hướng phát huy tích cực, chủ động,
sáng tạo của trẻ với sự vận dụng các phương pháp chăm sóc và giáo dục phù hợp,
phương pháp mới, kết hợp các hình thức tổ chức hoạt động đa dạng. Đạt kế hoạch
việc chia nội dung ra từng phần nhỏ với quỹ thời gian tương ứng và dự kiến trước
hoạt động của trẻ
Trang 6
Yêu cầu giáo viên lập được kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ theo các loại
được cụ thể hóa thành các tiêu chí sau:
- Lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ theo năm học thể hiện mục tiêu và
nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ của lớp mình phụ trách.
Giáo viên mầm non có kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ theo năm học thể
hiện mục tiêu và nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ theo quy định, phù hợp với đặc
điểm của trẻ theo độ tuổi [đặc điểm phát triển, nhu cầu, hứng thú, khả năng, đặc thù
vùng miền của nhóm lớp mình phụ trách.
- Lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục theo tháng tuần
Giáo viên mầm non phải có kế hoạch chăm sóc giáo dục theo tháng, theo
tuần thể hiện mục tiêu và nội dung chăm sóc, giáo dục của Chương trình giáo dục
mầm non theo quy định, thể hiện mục tiêu, nội dung chăm sóc, giáo dục phù hợp
với đặc điểm của trẻ theo độ tuổi [đặc điểm phát triển, nhu cầu, hứng thú, khả năng,
đặc thù vùng miền của trẻ mình phụ trách].
- Lập kế hoạch hoạt động một ngày theo hướng thích hợp và phát huy tính
tích cực của trẻ
Giáo viên phải có kế hoạch chăm sóc, giáo dục trẻ trong một ngày theo
chương trình, tài liệu hướng dẫn và theo hướng thích hợp chủ đề cô vận dụng các
phương pháp thể hiện tính tích cực nhận thức dựa trên cơ sở đánh giá thường xuyên
về trẻ.
Biện pháp 8: Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động chăm sóc sức
khỏe cho trẻ Mầm non.
- Trước hết giáo viên phải biết tổ chức môi trường nhóm lớp đảm bảo vệ sinh

và an toàn cho trẻ, tạo môi trường trong và ngoài nhóm lớp.
Giáo viên phải biết xây dựng và tổ chức thường xuyên môi trường nhóm lớp
sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh, ngăn nắp, gọn gàng và an toàn cho trẻ [xắp xếp đồ dùng
ngăn nắp, tránh đổ vỡ, rơi gây nguy hiểm với trẻ] tạo được tâm lý thoải mái và
hứng thú tham gia hoạt động ở trẻ [đảm bảo vệ sinh an toàn; đảm bảo thuận tiện
cho trẻ và giáo viên tham gia hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ; có các hoạt động
hứng thú, sáng tạo của trẻ và giáo viên; được tôn trọng và thuận tiện]
- Giáo viên phải biết tổ chức giấc ngủ, bữa ăn đảm bảo vệ sinh an toàn cho
trẻ.
Trang 7
Tổ chức thường xuyên và thực hiện tốt hoạt động chăm sóc ăn ngủ, đảm bảo
vệ sinh và an toàn cho tất cả các trẻ trong lớp, trong đó quan tâm đến những trường
hợp cá biệt [trẻ mới đi học, trẻ mới ốm dậy, trẻ cần chăm sóc đặc biệt hơn, trẻ yếu]
và giáo dục trẻ tự phục vụ phù hợp với từng độ tuổi.
- Giáo viên phải biết hướng dẫn trẻ rèn luyện một số kỹ năng tự phục vụ
Giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn trẻ thực hiện các kỹ năng tự phục
vụ. Đồng thời, biết vận dụng các phương pháp khác nhau để rèn luyên các kỹ năng
tự phục vụ của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi và có kết hợp với giáo dục nhận thức, ý thức
tự giác của trẻ về các kỹ năng tự phục vụ.
Tổ chức môi trường giáo dục, phân chia nhóm lớp học thành những góc chơi,
góc hoạt động đẹp, phù hợp với lứa tuổi của trẻ, với điều kiện cơ sở vật chất của
trường và thuận tiện với việc sử dụng, tạo được hứng thú cho trẻ. Giáo viên có thể
thay đổi, điều chỉnh môi trường giáo dục của lớp nhằm tạo sự hấp dẫn, thoái mái và
khuyến khích sự tham gia của trẻ.
Giáo viên phải có đầy đủ hệ thống sổ sách, kế hoạch quản lý nhóm lớp có
liên quan đến kế hoạch giáo dục; sổ theo dõi tài sản] và có báo cáo định kì, bổ sung
thường xuyên, đầy đủ hệ thống sổ sách và điều chỉnh kế hoạch quản lý nhóm lớp
gắn với kế hoạch hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ có hiệu quả và phù hợp với điều
kiện thực tế.
Giáo viên giao tiếp nhẹ nhàng tình cảm, có kết hợp với sử dụng ngôn từ rõ

ràng, dễ hiểu đối với trẻ, lắng nghe trẻ nói và tạo cơ hội cho trẻ cùng tham gia, lôi
cuốn sự tham gia tích cực của trẻ vào giao tiếp với cô, với bạn.
Giao tiếp ứng xử với đồng nghiệp nhẹ nhàng trao đổi, chia sẻ với đồng
nghiệp thẳng thắn, cởi mở; lắng nghe, sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm về công việc
và hỗ trợ đồng nghiệp chân tình [Chuẩn bị tiết dạy ; làm đồ dùng đồ chơi; tạo môi
trường lớp học] nhằm tạo được tập cởi mở sẵn sàng chia sẻ, chân tình và thẳng
thắn, hợp tác trong mọi công việc
Trao đổi trò chuyện với cha mẹ, ông bà của trẻ vui vẻ, chân tình về tình hình
của trẻ và cách thực phối hợp chăm sóc, giáo dục trẻ; trao đổi và lắng nghe tiếp thu
những ý kiến đóng góp từ phụ huynh để điều chỉnh công việc phù hợp nhằm tạo
được niềm tin yêu và thiện cảm đối với cha mẹ của trẻ, lôi cuốn được sự tham gia
gia nhiệt tình của ông bà, cha mẹ trẻ và cộng đồng để phối kết hợp trong chăm sóc
giáo dục trẻ.
Trang 8
Giao tiếp tốt ứng xử với mọi người trong cộng đông vui vẻ, cởi mở chân
thành phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán địa phương và tạo được niềm tin
của họ với giáo dục mầm non. Giáo viên có những cách thức giao tiếp và vận động
mọi người cùng tham gia vào các hoạt động chung trong cộng đồng có hiệu quả.
Như vậy các biện pháp đưa ra là vô cùng quan tuy nhiên bên cạnh đó quan trọng
nhất là giáo viên phải biết thu thập thông và tìm minh chứng dễ dàng hơn trong việc
tự đánh giá một cách chính xác hơn.
III. HIỆU QUẢ THỰC HIỆN:
Qua các biện pháp nêu trên trước khi chưa thực hiện và sau khi thực hiện đã
đạt được kết quả như sau:
* Trước khi chưa áp dụng các biện pháp năm học 2011-2012
Các biện pháp
Tổng
số
tham
gia

Kết quả thực hiện
Giỏi % Khá % TB % Kém %
Nội dung đánh giá tiêu
chuẩn xếp loại
42 5 11,90 14 33,33 20 47,61 3 7,14
Hướng dẫn tiêu chuẩn
xếp loại
42 3 7,14 17 40,47 19 45,23 3 7,14
Phân loại giáo viên sau
khi đánh giá
42 8 19,04 19 45,23 13 30,95 2 4,76
Quy trình đánh giá xếp
loại
42 5 11,90 17 40,47 18
42,85
2 4,76
Hướng dẫn tìm hiểu về
các nội dung, tiêu chí
42 9 21,22 18 42,85 11 26,19 4 9,52
Nội dung tiêu chí lĩnh
vực kiến thức
42 7 16,66 20
47,61
14 33,33 1 2.38
Lập kế hoạch chăm sóc
giáo dục
42 15 35,71 16 38,09 8 19,04 3 7,14
Tổ chức thực hiện các
hoạt động chăm sóc,
sức khỏe cho trẻ

42 12 28,57 18 42,85 9 21,42 3 7,14
* Sau khi áp dụng các biện pháp vào năm học 2012- 2013
Các biện pháp Tổng Kết quả thực hiện
Trang 9
số
tham
gia
Giỏi % Khá % TB % Kém %
Nội dung đánh giá tiêu
chuẩn xếp loại
48 19 39,58 20 41,66 9 21,24 00 00
Hướng dẫn tiêu chuẩn
xếp loại
48 15 31,25 25 52,08 8 16,66 00 00
Phân loại giáo viên sau
khi đánh giá
48 19 39,58 21 43,75 8 16,66 00 00
Quy trình đánh giá xếp
loại
48 20 41,66 22 45,83 6
12,50
00 00
Hướng dẫn tìm hiểu về
các nội dung, tiêu chí
48 21 43,75 19 39,58 8 16,66 00 00
Nội dung tiêu chí lĩnh
vực kiến thức
48 21 43,75 20 41,66 7 14,58 00 00
Lập kế hoạch chăm sóc
giáo dục

48 25 52,08 18 37,50 5 10,41 00 00
Tổ chức thực hiện các
hoạt động chăm sóc,
sức khỏe cho trẻ
48 25 52,08 17 35,41 6 12,50 00 00
* Bài học kinh nghiệm
- Để phát triển giáo một cách hiệu quả cần nắm vững và vận dụng các quan
điểm: Phát triển giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân từ đó làm
quản lý Giáo dục phải tích cực tham mưu cho Đảng, chính quyền các cấp, chủ động
phối hợp các ngành, các tổ chức đoàn thể thực hiện chương trình kế hoạch cụ thể và
chiến lược phát triển lâu dài của Giáo dục và Đào tạo.
- Triển khai đổi mới được tiến hành cương quyết và đồng bộ, tăng cường
năng lực đội ngũ quản lý, tổ chức bộ máy và các điều kiện cần thiết về tài chính
nguồn lực và thông tin về đổi mới hiệu quả.
- Thường xuyên tổ chức các lớp chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho giáo viên, việc bồi dưỡng phải được tiến hành đồng đều trên 100% giáo viên.
- Tổ chức tốt các Hội thi để giáo viên có điều kiện giao lưu học hỏi lẫn nhau
đồng thời là dịp để mỗi giáo viên có dịp thể hiện mình và dễ tìm ra các minh chứng.
Trang 10
- Làm tốt công tác thi đua khen thưởng, nhân rộng nhân tố mới, điển hình
tiên tiến làm nòng cốt cho các phong trào thi đua, các hoạt động của ngành phát
động.
- Quan tâm tốt công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ
giáo viên nhằm phát huy được tối đa khả năng và lòng nhiệt tình trách nhiệm của
từng giáo viên trong toàn huyện.
* Kết luận
Trong việc “Hướng dẫn áp dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non
vào đánh giá giáo viên” là sự nghiệp giáo dục, đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên
là một nhân tố cơ bản quyết định hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ được giao trong
nhà trường, nhằm đánh kết quả, năng lực của giáo được cụ thể hơn, đồng thời đó

cũng là một nhân tố có ý nghĩa trực tiếp quyết định chất lượng giáo dục toàn diện
trong việc nâng cao chất lượng công tác giảng và chăm sóc giáo dục trẻ của mỗi
nhà trường nói riêng và toàn ngành học trong toàn huyện nói chung.
Đội ngũ giáo viên là những người trực tiếp quyết định chất lượng giáo dục
toàn diện. Đội ngũ giáo viên là những người trực tiếp làm công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ, là người quyết định sự thành công của mỗi nhà trường.
Do vậy, là người quản lý phải tìm tòi sáng tạo trong cách chỉ đạo, hướng dẫn
tổ chức bằng nhiều hình thức trong qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục nhằm đáp ứng với yêu cầu đổi
mới của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Trên đây là một số kinh nghiệm bản thân tôi đã đúc rút được trong quá trình
làm công tác quản lý. Rất mong được sự góp ý tận tình của các cấp lãnh đạo.
Xin chân thành cảm ơn !
Ngọc Hiển, ngày 19 tháng 4 năm 2013
Ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết
Nguyễn Thị Sáu
Trang 11
XÁC NHẬN CỦA CẤP TRÌNH KHEN
Trang 12

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh toàn cầu hoá hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ đạt những bước tiến thần kỳ, khối lượng thông tin, tri thức nhân loại tăng theo hàm số mũ, hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều nhận thức giáo dục và đào tạo [GD&ĐT] trở thành nhân tố vừa là nền tảng, vừa là động lực góp phần quyết định tương lai của mỗi dân tộc. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nước ta khẳng định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội [KT-XH], sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của các lực lượng xã hội.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực GD&ĐT nước ta bên cạnh đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; chất lượng, hiệu quả GD&ĐT vẫn còn thấp so với yêu cầu xã hội; nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành; đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt, chương trình giáo dục phổ thông hiện hành đã bộc lộc những hạn chế, bất cập như: chương trình còn nghiêng về trang bị kiến thức lý thuyết, chưa thật sự thiết thực, chưa coi trọng kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng kiến thức; chưa đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đạo đức, lối sống. Mới chú trọng việc truyền đạt kiến thức, chưa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh; nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người, chưa coi trọng hướng nghiệp. Hình thức tổ chức giáo dục chủ yếu là dạy học trên lớp, chưa tăng cường tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động trải nghiệm. Quan điểm tích hợp và phân hoá chưa được quán triệt đầy đủ; các môn học được thiết kế chủ yếu theo kiến thức các lĩnh vực khoa học, chưa thật sự coi trọng yêu cầu về sư phạm; một số nội dung của một số môn học chưa đảm bảo tính hiện đại, cơ bản, còn nhiều kiến thức hàn lâm, nặng với học sinh. Phương pháp giáo dục và đánh giá chất lượng giáo dục nhìn chung còn lạc hậu, chưa chú trọng dạy cách học và phát huy tính chủ động, khả năng sáng tạo của học sinh.

Từ thực tế trên, Hội nghị lần thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”; Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Hơn nữa, chiến lược phát triển giáo dục nước ta giai đoạn từ năm 2011-2020 đã nhấn mạnh vai trò then chốt của GD&ĐT, nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ phát triển nguồn nhân lực, góp phần to lớn đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Thực tế cho thấychương trình và sách giáo khoa hiện hành khó đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới. Ngoài ra, xu thế phát triển chương trình và sách giáo khoacủa thế giới thay đổi rất nhanh; có nhiều thành tựu mới của khoa học giáo dục cần được bổ sung kịp thời vào chương trình giáo dục, nhiều nước có nền giáo dục phát triển đã chuyển hướng từ chương trình coi trọng nội dung giáo dục sang chương trình coi trọng phát triển năng lực người học. Chính vì vậy, chương trìnhgiáo dục Việt Nam cần đổi mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Để chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai thực hiện thành công thì người giáo viên có vai trò hết sức quan trọng, là gốc rễ của đổi mới, góp phần quyết định chất lượng GD&ĐT. Khi đó, nhiệm vụ người giáo viên ngoài quy định tại Điều 31 của Điều lệ trường phổ thông được ban hành theo Thông tư số 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, còn phải tổ chức, hướng dẫn nhiều hoạt động giáo dục cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát huy năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và năng lực tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được để phát triển. Quả thật, nhiệm vụ của người giáo viên ở trường phổ thông rất nặng nề, bởi ngoài việc hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy họ còn chịu áp lực từ nhiều phía từ nhà trường, gia đình và xã hội.

Để giảm bớt khó khăn, thách thức cho giáo viên trong nhà trường phổ thông trong bối cảnh chương trình giáo dục phổ thông mới chuẩn bị được đưa vào thực hiện, bản thân là một người có hơn 20 năm công tác trong ngành giáo dục, tôi mạnh dạn chia sẻ một vài kinh nghiệm liên quan đến nội dung “Những khó khăn, thách thức đối với giáo viên trung học phổ thông hiện nay khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới và giải pháp khắc phục” nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới khi được triển khai thực hiện.

Hình ảnh minh họa

2. Những khó khăn, thách thức đối với giáo viên trung học phổ thông hiện nay khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới

2.1. Khó khăn

2.1.1. Phải thích ứng với nhiều điểm mới của chương trình giáo dục phổ thông mới

Sở dĩ giáo viên trung học phổ thông hiện nay mang tâm trạng lo lắng, bất an khi tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới vì họ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; trước hết là giáo viên phải thích nghi với những điểm mới nổi bật của chương trình, cụ thể là: Kế hoạch giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông mới chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản từ lớp 1 đến lớp 9 [9 năm] gồm Tiểu học và THCS, nhằm trang bị cho học sinh [HS] tri thức, kĩ năng nền tảng; hình thành phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi; chuẩn bị tâm thế cho việc thích ứng với những thay đổi nhanh chóng nhiều mặt của xã hội tương lai; đáp ứng yêu cầu phân luồng sau THCS theo các hướng: học lên THPT học nghề hoặc tham gia cuộc sống lao động và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp [3 năm từ lớp 10 đến lớp 12] nhằm phát triển năng lực theo sở trường, nguyện vọng của từng học sinh [HS], đảm bảo HS tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn sau giáo dục phổ thông có chất lượng hoặc tham gia cuộc sống lao động. Điểm mới tiếp theo làhệ thống các môn học gồm các môn học bắt buộc [là môn học mà mọi HS đều phải học], môn học bắt buộc có phân hóa [là môn học mà nội dung được thiết kế thành các chủ đề hoặc học phần, môn học tự chọn và môn học tự chọn bắt buộc [là môn học mà HS bắt buộc phải lựa chọn trong số các môn học định hướng nghề nghiệp ở lớp 11, 12 theo quy định của chương trình giáo dục phổ thông]. Điểm mới nữa làmột số môn học có tên mới và một số môn mới, hoạt động giáo dục mới [theo hướng tích hợp, liên môn và định hướng nghề nghiệp cho HS]. Điểm mới cuối cùng là kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá thường xuyên, định kì ở cơ sở giáo dục, các kì đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế. HS hoàn thành các môn học, tích lũy đủ kết quả đánh giá theo quy định của Bộ được cấp bằng tốt nghiệp THPT [không tổ chức một kì thi chung như hiện nay].

Những điểm mới trên đòi hỏi người giáo viên phải được trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp, lẫn kinh nghiệm trong tổ chức hoạt động dạy học; kết quả giáo dục phản ánh sự đầu tư và năng lực của người thầy.

2.1.2. Những hạn chế, bất cập về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, kinh phí đào tạo trong ngành giáo dục

Để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới cần giải quyết căn cơ vấn đề tình trạng đội ngũ giáo viên sẽ thừa thiếu cục bộ, một số giáo viên đơn môn chắc chắn sẽ thừa, trong khi giáo viên môn nghệ thuật sẽ thiếu trầm trọng, đặc biệt là giáo viên dạy tích hợp một số môn chưa có; cơ sở vật chất, trang thiết bị, không gian riêng ở nhiều địa phương sẽ không đáp ứng được yêu cầu do có nhiều môn học mới, đòi hỏi rèn luyện kỹ năng, chú trọng giáo dục nhân cách cho học sinh; hơn nữa việc giáo dục trải nghiệm sáng tạo cũng cần kinh phí thực hiện và hơn hết là đảm bảo sự an toàn cho học sinh, tạo niềm tin cho phụ huynh cùng đồng hành với nhà trường trong việc giáo dục con em mình.

2.1.3. Dạy học nội dung giáo dục lịch sử địa phương

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới đề cao nội dung giáo dục lịch sử địa phương; tuy nhiên, việc biên soạn tài liệu, giáo trình, sự liệu vật chất lại phụ thuộc vào năng lực của giáo viên, điều kiệnthực tế của từng địa phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng kiến thức còn nặng và sự lệch nhau giữa nội dung lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương.Bên cạnh đó, do đặc thù vùng miền nên việc tổ chức các hình thức dạy học sẽ kém phong phú, việc dạy học lịch sử địa phương tại thực địahay việc ứng dụng công nghệ thông tin ít các trường tổ chức thực hiện. Việc tổ chức cho học sinh tham quan, học tập ở các di tích lịch sử chỉ diễn ra đối với các trường nằm ở trung tâm hoặc là gần các di tích…Mặt khác, một số học sinh không ham thích học lịch sử địa phương còn diễn ra ở một số trường học, nên dẫn đến tình trạng một số tiết học chưa đảm bảo được nội dung và yêu cầu của chương trình.

2.1.4. Công tác xã hội hoá giáo dục

Trong những năm qua, các trường trung học phổ thông nói chung dưới sự lãnh chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, quản lý công tác xã hội hoá giáo dục đã được tiến hành dưới nhiều hình thức và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, việc thực hiện xã hội hoá giáo dục vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: một số xã, phường, cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn thể và cha mẹ học sinh [CMHS] chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con em mình; chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục; do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên một bộ phận học sinh phải bỏ học vào đời kiếm sống; một số lực lượng xã hội quan niệm cho rằng nội dung chính của công tác xã hội hoá giáo dục là chỉ huy động kinh phí trong nhân dân hoặc là để cho dân lo là chính, dẫn đến việc đầu tư cho giáo dụcchưa đúng mức. Mặt khác, việc quản lý công tác xã hội hoá giáo dục còn thiếu biện pháp phù hợp, tính khả thi chưa cao. Điều này chắc chắn ảnh hưởng đến tâm lý của giáo viên khi giảng dạy, một khi chưa thật sự an tâm công tác thì chất lượng giáo dục sẽ không đạt được kết quả như mong muốn.

2.2. Thách thức

2.2.1. Xu thế hội nhập

Bên cạnh những khó khăn, giáo viên còn đối mặt với những thách thức về sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho giáo dục của Nhà nước và phần đông gia đình còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, đặt ra nhiệm vụ nặng nề và thách thức lớn đối với sự phát triển GD&ĐT; khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển không đều giữa các địa phương vẫn tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến thiếu bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa các đối tượng người học và các vùng miền.

2.2.2. Nhận thức của các lực lượng xã hội về vai trò của giáo dục

Nhận thức về vai trò giáo dục chưa thực sự thống nhất, đồng thuận trong các cấp quản lý và các tầng lớp nhân dân. Vẫn còn tư duy bao cấp, sức ì trong nhận thức, tác phong quan liêu trong ứng xử với giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; bệnh thành tích, hư danh, chạy theo bằng cấp trong cán bộ và người dân chậm được khắc phục.

2.2.3. Hệ lụy của sự tiến bộ xã hội

Khoảng cách phát triển về KT- XH, khoa học và công nghệ, GD&ĐT giữa nước ta và các nước tiên tiến trong khu vực, trên thế giới có xu hướng gia tăng, hội nhập quốc tế và sự phát triển của kinh tế thị trường đang làm nảy sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự thâm nhập lối sống không lành mạnh, xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc; sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục kém chất lượng, lạm dụng dạy thêm, học thêm, chạy trường, chạy điểm...

3.Giải pháp khắc phục

3.1. Công tác bồi dưỡng, tập huấn

Tăng cường bồi dưỡng thường xuyên, tập huấn ngắn hạn của Bộ, Sở GD&ĐT về chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, khuyến khích học trực tuyến, bồi dưỡng tại chỗ, phát huy năng lực tự nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng công nghệ thông tìn vào giảng dạy, công tác; đa dạng các hình thức tập huấn, quan tâm đến giao lưu học tập kinh nghiệm, tổ chức hội thảo chuyên đề, mời chuyên gia để truyền đạt ý tưởng, tạo động lực để giáo viên thổi hồn vào bài giảng một cách thiết thực và hiệu quả hơn.

3.2. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học

Cần tận dụng tối đa cơ sở vật chất của nhà trường, linh hoạt sáng tạo trong sử dụng, phân bố các phòng học; quán triệt nguyên tắctận dụng tối đa tài nguyên hiện có; xây dựng kế hoạch trang bị thêm thiết bị tối thiểu cho những môn học mới; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả; phát huy ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả; tích cực tự làm đồ dùng dạy học, tăng cường xã hội hoá, tranh thủ sự hỗ trợ về mọi mặt của cha mẹ học sinh và cộng đồng xã hội.

3.3. Phát huy vai trò của Ban đại diện cha mẹ học sinh, các lực lượng xã hội

Ban đại diện CMHS là một tổ chức quần chúng đặc biệt quan trọng trong tổ chức, hoạt động giáo dục. Chính vì vậy tại Điều 96 Luật Giáo dục 2005 đã quy định hình thức tổ chức của Ban đại diện CMHS “Ban đại diện CMHS được tổ chức trong mỗi năm học ở giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, do cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh từng lớp, từng trường cử ra để phối hợp với nhà trường thực hiện các hoạt động giáo dục”[1]. Việc củng cố, phát huy hoạt động của Ban đại diện CMHS chính là nâng cao, tăng cường sự phối hợp, liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình GD THPT. Để đẩy mạnh mọi hoạt động của Ban đại diện CMHS thì nhà trường, cần có hình thức tổ chức Hội nghị Ban đại diện CMHS định kỳ. Thông qua Hội nghị, các chương trình phối hợp giáo dục giữa gia đình - nhà trường và xã hội sẽ tạo sự gắn kết, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp giáo dục. Phát huy tối đa vai trò của các lực lượng xã hội tham gia đóng góp cho giáo dục, trong đó quan tấm đến đóng góp chương trình giáo dục phổ thống mới, đúng như Tác giả Phạm Minh Hạc trong tác phẩm“Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI”[2] đã khẳng định sự nghiệp giáo dục của Việt Nam không phải chỉ do Nhà nước gánh vác, mà phải có sự chung sức của các lực lượng xã hội cùng tham gia vào sự nghiệp giáo dục nước nhà, tạo nên một xã hội học tập.

3.4. Phối hợp chặt chẽ các môi trường giáo dục

Môi trường gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho học sinh. Chính vì thế, Nhà nước, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư phải có trách nhiệm giúp đỡ, định hướng cho các gia đình về những điều kiện tối thiểu, cần thiết về kinh tế, về nếp sống văn minh, về trình độ học vấn và kiến thức giáo dụchọc sinh, đặc biệt là vai trò của CMHS cần phải phát huy tối đa.

Môi trường nhà trường: Nhà trường là trung tâm, thông qua giáo dục trong nhà trường sẽ góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người. Nhà trường không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức về văn hóa, mà còn rèn luyện và phát triển đạo đức, tư duy sáng tạo, hành vi ứng xử giúp các em trở thành con người phát triển toàn diện.

Môi trường xã hội: Môi trường giáo dục xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi ứng xử, đạo đức học sinh. Môi trường xã hội ta đang có những biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ, có tác động lớn đến việc giáo dục thế hệ trẻ. Vì thế, cần huy động toàn xã hội vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, có ý nghĩa giáo dục tích cực, luôn hướng các em đến cái thiện, cái tốt.

3.5. Đẩy mạnhtổ chức hoạt động giáo dục thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh

Nghị quyết 29/NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII, khoá XI, khi đánh giá tình hình giáo dục đào tạo ở phổ thông đã khẳng định: “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức lối sống và kỹ năng làm việc” [3].Trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, Bộ GD&ĐT cũng xác định sự thay đổi quan trọng nhất là chuyển từ coi trọng truyền thụ nội dung tri thức sang giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách của người công dân. Nhà trường chỉ chú trọng truyền thụ tri thức một chiều hay chỉ “dạy chữ” mà quên đi “dạy người” là một khiếm khuyến lớn của giáo dục. Giáo dục toàn diện phải chú trọng trang bị kiến thức cùng với giáo dục các phẩm chất. Những phẩm chất nhà trường phải hướng tới là phẩm chất của một con người mới, phẩm chất công dân mới biết “sống yêu thương, sống tự chủ, sống có trách nhiệm”[4].

3.6. Chú trọng tổ chức hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp cho học sinh

Đây là một trong những nội dung giáo dục toàn diện cho học sinh ở nhà trường phổ thông hiện nay. Thông qua hoạt động này, người giáo viên sẽ giúp học sinh hình thành được những phẩm chất và năng lực của người lao động, chuẩn bị tâm thế để bước vào cuộc sống lao động sau này. Mục đích tổ chức hoạt động giáo dục lao động là giúp học sinh ý thức trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn vệ sinh lớp học, làm sạch môi trường học tập và có ý thức trách nhiệm trong phân công lao động tập thể. Bên cạnh những buổi hoạt động giáo dục lao động bắt buộc, người giáo viên phải thường khuyến khích các em tự nguyện tham gia các buổi lao động công ích như tham gia phong trào “Ngày thứ Bảy xanh- sạch- đẹp” do Đoàn thanh niên phối hợp tổ chức vệ sinh các gốc phố, con đường… Còn tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp sẽ giúp học sinh có hiểu biết và chọn đúng đắn nghề nghiệp trong tương lai phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của xã hội.

3.7. Đa dạng các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí

Bên cạnh các hoạt động học tập, lao động của lớp, giáo viên bộ môn cùng với giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm cố vấn cho đội ngũ cán sự lớp tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí… nhằm giúp học sinh sảng khoái tinh thần, minh mẫn học tập, mở mang trí tuệ, phát triển thể chất, giáo dục thẩm mĩ, phát triển nhân cách nói chung của học sinh. Hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục này rất phong phú, đa dạng như: các hoạt động giao lưu thể thao [bóng đá, bóng chuyền, cầu lông…], hoạt động cắm trại, du lịch, tham gia các hoạt động vui chơi bổ ích… Đó là những hoạt động ngoài giờ lên lớp rất bổ ích mà bất cứ một môi trường giáo dục lành mạnh, tiên tiến nào cũng cần có.

5. Kết luận

Tóm lại, để hoàn thành mục tiêu giáo dục toàn diện, góp phần thực hiện thành công cuộc đổi mới giáo dục, rất cần sự thay đổi trong nhận thức và hành động của mỗi thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Giáo viên phải tích cực phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường tổ chức tốt các hoạt động giáo dục toàn diện cho học sinh. Mọi tổ chức hoạt động giáo dục toàn diện cho học sinh thật sự thành công hay không là phụ thuộc vào cái tâm, cái tài và cái tầm của người giáo viên. Với những kinh nghiệm đã được đúc kết trong quá trình giảng dạy và quản lý giáo dục nhiều năm qua, chúng tôi tin rằng những giải pháp nêu trên sẽ giúp ích cho giáo viên trung học sẽ tự tin, đủ kiến thức và kĩ năng để hoàn thành tốt nhiệm vụ vừa “dạy chữ” vừa “dạy người” của mình trong chương trình giáo dục phổ thông mới./.


[1]Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [2010], Luật Giáo dục 2005, sửa đổi năm 2009, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[2]Phạm Minh Hạc [1999], Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Ban hành Trung ương Đảng [2013], Nghị quyết 29- NQ/TW của Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VIII, khoá XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá…”

[4]Bộ Giáo dục và Đào tạo [2015], Một số tài liệu dùng cho Ban xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, Hà Nội tháng 1- 2015, trang 9.

Những khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật về giáo dục nghề nghiệp

Cập nhật lúc: 06:34, 10/09/2019 [GMT+7]
Mới đây, tại Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp [Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội] tổ chức hội nghị triển khai pháp luật về giáo dục nghề nghiệp năm 2019 với sự tham dự của 500 đại biểu đến từ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong cả nước. Hội nghị cũng đã đề cập đến những khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật về giáo dục nghề nghiệp cần sự hoàn chỉnh, bổ sung đa ngành.
Sinh viên Trường CĐYT Lâm Đồng trong ngày lễ tốt nghiệp nhận bằng Y sỹ đa khoa
Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đã cấp 1.085 lượt Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp cho 430 trường [gồm 45 cơ sở giáo dục đại học và 385 trường cao đẳng]. Trong đó, lĩnh vực sức khỏe có 92 cơ sở và lĩnh vực văn hóa nghệ thuật có 35 cơ sở. Nổi cộm trong hoạt động liên kết đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ngoài trụ sở chính, đặc biệt khối ngành kỹ thuật, sức khỏe đòi hỏi phải có thiết bị, dụng cụ đảm bảo chất lượng đào tạo, nhưng thực tế hiện nay, việc liên kết không đảm bảo đầy đủ số lượng theo chương trình đào tạo, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và không đảm bảo mục tiêu đào tạo, dẫn đến tình trạng “học giả bằng thật”, mà việc kiểm soát chất lượng liên kết đào tạo của các cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn. Qua báo cáo của 62/63 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố, thống kê có 113 trường chủ trì liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo và 337 đơn vị phối hợp liên kết đào tạo thì đã phát hiện 20 đơn vị không có chức năng đào tạo.
Phần lớn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên kết với các trường THPT, Trung tâm Y tế huyện, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện để đào tạo cho đối tượng vừa học trung cấp vừa học văn hóa trình độ THPT để hưởng chính sách về miễn học phí đào tạo trình độ trung cấp theo quy định tại Nghị định số 86/2015/NĐ-CP. Qua kết quả rà soát, theo dõi, xử lý của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và báo cáo của các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cả nước cho thấy một thực trạng đáng quan ngại là không có một cơ sở giáo dục nghề nghiệp nào liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo với doanh nghiệp để cho học viên, sinh viên tiếp cận với môi trường làm việc, các thiết bị công nghệ thực tiễn sản xuất và nâng cao trình độ kỹ năng nghề theo đúng tinh thần của Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH và mục tiêu đào tạo nhân lực có trình độ tay nghề.
Hiện nay, để đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn theo quy định tại Thông tư số 08/2017/TT-BLĐTBXH, phần lớn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp gặp khó khăn về đạt chuẩn trình độ kỹ năng nghề, trình độ tin học và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo. Một số ngành nghề đào tạo về trình độ cao đẳng thiếu đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn về trình độ chuyên môn vì hiện nay chưa có trường đại học nào đào tạo các ngành này ở trình độ đại học trở lên như: ngành, nghề kỹ thuật chế biến món ăn, chăm sóc sắc đẹp, dinh dưỡng…
Theo quy định tại Thông tư số 26/2015/TTLT - BYT - BNV giữa Bộ Y tế và Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y và Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT - BYT - BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp dược, có nội dung từ ngày 1/10/2021 trở đi, viên chức tuyển dụng vào chức danh nghề nghiệp điều dưỡng, dược, hộ sinh, kỹ thuật y ít nhất phải tốt nghiệp trình độ cao đẳng chuyên ngành trở lên. Do đó, thời gian qua, những người học các ngành nghề nêu trên đang học trình độ trung cấp có tâm lý lo ngại sau khi học xong không được các cơ sở y tế tuyển dụng. Bên cạnh đó, ngày 27/4/2017, Bộ Y tế có Văn bản số 2209 kiến nghị Bộ Lao động - TBXH giảm quy mô tuyển sinh và dừng đào tạo trình độ trung cấp vào năm 2018 đối với các ngành, nghề nêu trên, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo y tế và đảm bảo tính hội nhập quốc tế trong đào tạo. Nhưng trong thực tế, các bệnh viện và các cơ sở y tế vẫn có vị trí việc làm, nhu cầu tuyển dụng cho các ngành, nghề dược, điều dưỡng, hộ sinh trình độ trung cấp; tuy nhiên, đến năm 2018 các cơ sở không tuyển sinh được các ngành nghề đào tạo trình độ trung cấp nêu trên.
Về đội ngũ nhà giáo, hiện nay theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 111/2017/NĐ-CP, người giảng dạy thực hành của cơ sở thực hành được công nhận là giảng viên [hoặc giáo viên] cơ hữu của cơ sở giáo dục khi được kiêm nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, trưởng, phó khoa, bộ môn của cơ sở giáo dục đó. Tuy nhiên, Luật Giáo dục nghề nghiệp cũng như các văn bản hướng dẫn không quy định về vấn đề này. Ngoài ra, tiêu chuẩn của nhà giáo giáo dục nghề nghiệp và tiêu chuẩn của cán bộ đang làm việc tại cơ sở thực hành là khác nhau, do vậy, các cơ sở đào tạo gặp rất nhiều khó khăn trong việc chứng minh chuẩn nhà giáo giáo dục nghề nghiệp của đội ngũ giảng dạy thực hành. Về chương trình đào tạo thực hành, theo quy định tại Điều 4 Nghị định 111 của Chính phủ, cơ sở giáo dục có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ sở thực hành để xây dựng chương trình đào tạo thực hành. Tuy nhiên, Bộ Y tế chưa có hướng dẫn chi tiết về thể thức, nội dung, yêu cầu của chương trình đào tạo thực hành, do đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn lúng túng trong việc xây dựng chương trình đào tạo thực hành khối ngành sức khỏe.
Để hoạt động giáo dục dạy nghề phát triển đáp ứng yêu cầu xã hội và phù hợp với thực tế, cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nhiều bộ ngành. Đối với Bộ Lao động - TBXH sớm ban hành quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về chuẩn năng lực mà người học đạt được sau tốt nghiệp và định mức kinh tế kỹ thuật, danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu đối với các ngành nghề đào tạo có trong danh mục ngành nghề đào tạo theo quy định tại Thông tư 04/2017 của Bộ Lao động - TBXH. Xây dựng, ban hành ngân hàng đề thi và tổ chức đánh giá kỹ năng nghề cho đội ngũ nhà giáo đối với tất cả các ngành nghề có trong danh mục quy định ngành nghề đào tạo. Phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo sớm ban hành quy định khối lượng kiến thức văn hóa để đào tạo cho học sinh thuộc khối ngành văn hóa nghệ thuật; mở các điều kiện liên thông từ trung cấp, cao đẳng lên đại học; chỉ đạo Sở Giáo dục các tỉnh, thành phố kết nối và chia sẻ dữ liệu kết quả thi tốt nghiệp THPT quốc gia với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên phạm vi cả nước.
Bộ Y tế sớm ban hành quy định về tiêu chuẩn năng lực đội ngũ cán bộ, nhà giáo và nội dung chuyên môn, nghiệp vụ trong việc tổ chức đào tạo đối với các ngành nghề thuộc lĩnh vực sức khỏe. Đồng thời, sớm ban hành quy định mã chức danh, vị trí việc làm đối với các ngành nghề có trình độ đào tạo dưới trình độ cao đẳng cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn hiện nay, đặc biệt là các ngành ở trình độ sơ cấp.
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Lao động - TBXH có quy định chặt chẽ về chương trình đào tạo, thời gian đào tạo, yêu cầu văn hóa; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, trang thiết bị; quy mô lớp học, đội ngũ giáo viên đối với việc mở ngành đào tạo để đảm bảo chất lượng đào tạo, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và thể dục thể thao. Liên bộ có thỏa thuận việc công nhận tương đương với các bậc trình độ kỹ năng nghề đối với nhà giáo đã được cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch được đánh giá theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam và nhóm ngành văn hóa - nghệ thuật…
AN NHIÊN

[Tổ Quốc] - "Trong thời gian tới sẽ tập trung, rà soát lại các nội dung bồi dưỡng thường xuyên; Đổi mới chương trình, nội dung tài liệu; Giảm tải hệ thống văn bằng chứng chỉ như chứng chỉ về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, chứng chỉ bồi dưỡng thường xuyên", ông Phạm Tuấn Anh- Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục [Bộ GDĐT].

Ngày 18/12, Hội thảo "Nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018" do Ban Quản lý Chương trình ETEP phối hợp với Sở GDĐT Bình Định và Trường ĐH Sư phạm - Đại học Huế tổ chức với sự tham gia của các cán bộ quản lý, chuyên gia giáo dục cùng hơn 100 giáo viên, hiệu trưởng, hiệu phó… các cơ sở giáo dục phổ thông.

Hội thảo nhằm nâng cao nhận thức của giáo viên [GV] và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông [CBQLCSGDPT] về phát triển năng lực nghề nghiệp để thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 [GDPT 2018], đồng thời nghe ý kiến phản hồi của các thầy cô về mô hình bồi dưỡng mới, các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên, liên tục, tại chỗ theo mô hình mới của Bộ GDĐT đang triển khai thông qua Chương trình ETEP; thúc đẩy hoạt động hỗ trợ GV&CBQLCSGDPT tự bồi dưỡng, phát triển nghề nghiệp đạt hiệu quả, thực hiện thành công Chương trình GDPT mới.

Hội thảo "Nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018"

Phát biểu tại hội thảo, ông Đặng Văn Huấn, Phó Giám đốc BQL Chương trình ETEP cho biết, mục tiêu cốt lõi của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là đó là chuyển từ một nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất, năng lực người học. Điều này được thể hiện rất rõ ở Chương trình GDPT2018, từ mục tiêu đến nội dung giáo dục, phương pháp dạy học, đánh giá kết quả giáo dục đều hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Để thực hiện Chương trình GDPT mới, giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông cần được bồi dưỡng một cách bài bản, thiết thực.

Bộ GDĐT thông qua Chương trình ETEP đã xây dựng 54 mô-đun tài liệu bồi dưỡng GV, CBQLCSGDPT. Toàn bộ các mô-đun bồi dưỡng đều hướng đến hỗ trợ các thầy cô giáo phát triển năng lực nghề nghiệp để triển khai thành công chương trình GDPT 2018.

Từ năm 2019 đến nay, Chương trình ETEP đã bồi dưỡng 28.000 GV cốt cán và 4.000 CBQLCSGDPT cốt cán trong toàn quốc theo mô hình mới. Cho đến thời điểm này, đội ngũ GV cốt cán đã hoàn thành bồi dưỡng 5 mô-đun quan trọng. Ngay sau khi hoàn thành bồi dưỡng mỗi mô-đun, các thầy cô cốt cán đã triển khai hỗ trợ GV, CBQLCSGDPT đại trà trong toàn quốc bồi dưỡng theo hình thức tự học qua Hệ thống LMS kết hợp với sinh hoạt chuyên môn tại trường, cụm trường với sự hỗ trợ chuyên môn của các giảng viên chủ chốt từ các trường đại học sư phạm, Học viện QLGD tham gia Chương trình ETEP.

Tính đến ngày 01/12/2021, toàn quốc đã triển khai bồi dưỡng 4 mô-đun trên hệ thống LMS tại 58 sở GDĐT, trong đó Bình Định là địa phương trong nhóm đứng đầu về hoàn thành gần 100% đối với 4 mô-đun. Trường ĐHSP-ĐH Huế đã phối hợp chặt chẽ với 10 Sở GDĐT theo địa bàn được phân công, trong đó có Sở GDĐT Bình Định, ông Huấn cho hay.

Xác định những yêu cầu của GDĐT trong giai đoạn mới phải gắn liền với mục tiêu đổi mới giáo dục, Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục Phạm Tuấn Anh nhấn mạnh, từ định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh trong xây dựng chương trình GDPT 2018 đòi hỏi phải đổi mới cách dạy, cách học. Đội ngũ GV&CBQLCSGD phổ thông phải nâng cao năng lực, phẩm chất để đáp ứng các yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, đặc biệt là đáp ứng những đổi mới của chương trình SGK GDPT. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh về phương pháp học nhiều hơn. Học sinh phải tự học nhiều hơn, phải biết huy động tổng thể kiến thức, kỹ năng, tiềm lực của mình để thực hiện mục tiêu giáo dục.

Ông Phạm Tuấn Anh cũng cho biết, trong thời gian tới sẽ tập trung vào một số định hướng như, rà soát lại các nội dung BDTX; Đổi mới chương trình, nội dung tài liệu; Giảm tải hệ thống văn bằng chứng chỉ như chứng chỉ về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, chứng chỉ bồi dưỡng thường xuyên. Sau này có thể là các Sở GDĐT công nhận việc BDTX hàng năm.

Chia sẻ tại hội thảo, PGS.TS. Lê Anh Phương- Hiệu trưởng trường ĐHSP - ĐH Huế cho rằng, việc BDTX cho đội ngũ GV là thường xuyên, liên tục, việc thay đổi tiếp cận trong giáo dục của chương trình ETEP đã nâng cao hiệu quả và đáp ứng nhu cầu GDPT mới. Đội ngũ nhà giáo qua 6 mô-đun bồi dưỡng đã được nâng cao năng lực để phát triển nghề nghiệp. Trong khi dịch bệnh không thể triển khai trực tiếp nhưng vẫn thực hiện được thông qua lớp học ảo trên hệ thống học tập trực tuyến và cũng rất hiệu quả, nắm bắt được những nhu cầu của chương trình GDPT mới và có những thay đổi nhất định sau khi triển khai đánh giá năng lực, tiếp cận người học.

Trong thời gian tới, PGS.TS. Lê Anh Phương mong muốn bồi dưỡng nội dung về xử lí truyền thông, quảng bá hình ảnh nhà trường tới toàn xã hội; về nâng cao năng lực quản trị nhà trường cho CBQL. Và đề xuất, ngoài quy trình BDTX, cần có các chuyên đề mở cho các trường ĐHSP ngoài ETEP, không nên áp đặt các chuyên đề cụ thể như đã ban hành. Cục Nhà giáo và CBQLGD nên tổ chức đánh giá về nhu cầu bồi dưỡng của giáo viên. Về lâu dài cần quan tâm tới hệ thống các trường ĐHSP trên toàn quốc và đề nghị Cục Nhà giáo và CBQLGD có ý kiến để tất cả đội ngũ giảng viên không nằm trong 7 trường ĐHSP cũng được nắm bắt tinh thần và được bồi dưỡng. Thành lập trung tâm khảo thí của trường ĐHSP.

Các cán bộ, giáo viên tham dự Hội thảo tại điểm cầu Sở GDĐT Bình Định

Là một Sở GDĐT đã hoàn thành gần 100% 4 mô-đun bồi dưỡng đại trà của chương trình, Giám đốc Sở GDĐT Bình Định Đào Đức Tuấn chia sẻ, trên cơ sở kế hoạch của Bộ GDĐT, BQL ETEP, Học viện QLGD, trường ĐHSP - ĐH Huế, Sở GDĐT tham mưu UBND tỉnh Bình Định ban hành kế hoạch đúng tiến độ, phân công rõ trách nhiệm của các bên. Công tác chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, thường xuyên. Hàng tháng có cuộc họp và luôn nắm sát tình hình hàng tháng.

Bên cạnh đó, Sở sắp xếp đội ngũ GV, CBQL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Sở đã rà soát, thực hiện đúng chỉ đạo của Bộ GDĐT đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng. Thường xuyên truyền thông nâng cao nhận thức về vai trò của đội ngũ GV, CBQL cũng như nhiệm vụ tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Coi việc bồi dưỡng là quan trọng hàng đầu để triển khai Chương trình GDPT 2018. Do vậy khi triển khai đổi mới SGK lớp 1, 2, 6 GV của tỉnh Bình Định rất vững vàng, không có vướng mắc gì.

Ngoài ra, Sở cũng thực hiện các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho đội ngũ GV, CBQL cốt cán tham gia bồi dưỡng và hỗ trợ GV đại trà, chủ động tham mưu cho UBND tỉnh chế độ hỗ trợ. Kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình bồi dưỡng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, báo cáo rút kinh nghiệm sau khi kết thúc mỗi mô-đun. Sau mỗi mô-đun luôn họp bàn để khắc phục hạn chế.

Tham dự hội thảo, các giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục… cũng chia sẻ những thuận lợi, khó khăn từ thực tế bồi dưỡng tại địa phương - những biện pháp trước mắt và lâu dài để hoạt động bồi dưỡng thực sự hiệu quả và tham gia đóng góp các ý kiến thiết thực trong quá trình tập huấn triển khai chương trình GDPT 2018.

Thầy Phan Văn Hà - Phó Hiệu trưởng trường THPT chuyên Chu Văn An tỉnh Bình Định, là 1 trong 8 CBQL CSGDPT cốt cán của tỉnh Bình Định cho biết, mô-đun khó nhất là mô-đun 4 Xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường. Hiện nay đã là tháng 12/2021, các trường đang bắt đầu đánh giá thuận lợi khó khăn để chuẩn bị xây dựng kế hoạch giáo dục để sẵn sàng đổi mới lớp 10 vào năm tới. Khó nhất là làm sao dự đoán tình hình, sắp xếp để đáp ứng việc lựa chọn môn học của học sinh. Nếu Viettel hoặc các ứng dụng khác có thể có những phần mềm để tối ưu hóa việc lựa chọn môn của học sinh để sắp xếp nhân sự thì sẽ rất tốt.

Thầy Hà cũng cho biết, hiện nay chưa có chương trình cho trường chuyên và bày tỏ mong muốn Bộ GDĐT sớm có hướng dẫn cho chương trình chuyên để nhà trường sớm tính số lượng đội ngũ.

Ý kiến của thầy Hà cũng là băn khoăn của thầy Trần Hà Nam về chương trình dành cho trường chuyên. "Chương trình GDPT 2018 có nhiều thay đổi, sẽ cần có những thay đổi phù hợp với trường chuyên, từ hình thức dạy học đến kiểm tra đánh giá nhằm phát huy phẩm chất và năng lực của học sinh. Xây dựng chuyên đề chuyên sâu và cách thức triển khai để thi học sinh giỏi hiệu quả trong xu hướng dạy học tích hợp", thầy Nam trao đổi về ý kiến này.

Một số ý kiến, đề xuất cũng được quan tâm tại hội thảo như ý kiến của cô Ngô Thị Thanh Phương - Tổ trưởng chuyên môn trường THCS Lê Hồng Phong, TP Quy Nhơn, như, về một số môn dạy học tích hợp thì sẽ tổ chức thi chọn học sinh giỏi như thế nào trong thời gian tới? Mong muốn Bộ xây dựng hệ thống bài tập, học liệu để đánh giá học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực. Hay, Bộ cần điều chỉnh nội dung chương trình của các lớp 3, 4, 5 [đang theo chương trình hiện hành] cho dần phù hợp với chương trình 2018 để sau này các em tiếp cận chương trình mới được thuận lợi.

Cô Hoàng Thị Ngân, GV đại trà tỉnh Bình Định chia sẻ khó khăn khi một số mô-đun còn dài nên GV quá tải vì vừa phải dạy trên lớp vừa phải học mô-đun nên chưa kịp tiến độ… Cô Đỗ Thị Mỹ Chi - GV cốt cán môn Ngữ văn trường THPT Nguyễn Diêu, huyện Tuy Phước, cho hay, sau khi học xong phải tập huấn lại cho đại trà bằng hình thức trực tuyến, nhưng thầy cô đại trà ở các huyện miền núi còn lúng túng nhiều, đường truyền Internet rất yếu, GV không thể truy cập đăng kí lớp học. Việc học các mô-đun khá dày, lúc tập huấn lại trùng thời gian dạy học nên GV đại trà có thể hơi chậm nhưng GV cốt cán luôn đôn đốc để hoàn thành kịp tiến độ. Đồng thời thầy cô tranh thủ một số ngày đến trường tập trung để bồi dưỡng./.

V.Khánh

Yêu cầu ngoại ngữ trong Chuẩn hiệu trưởng, Chuẩn giáo viên xa rời thực tế

Ý kiến ghi nhận, các nhận của nhóm chuyên môn/tổ chuyên môn/Ban Giám hiệu…về việc giáo viên có thể sử dụng được các từ ngữ giao tiếp đơn giản bằng ngoại ngữ…

Hoặc có chứng chỉ ngoại ngữ đạt mức 1/16 theo khung năng lực ngoại ngữ dành cho Việt Nam hoặc các chứng chỉ tương đương về ngoại ngữ do các đơn vị có thẩm quyền cấp…

Tiêu chí 15 cũng quy định về ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục

Mức đạt yêu cầu:

Sử dụng được các phần mềm ứng dụng cơ bản, thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục và quản lý học sinh theo quy định; hoàn thành các khóa đào tạo, bồi dưỡng, khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin và các thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục theo quy định;

Phần gợi ý thu thập minh chứng cũng nêu rõ:

Ý kiến ghi nhận, các nhận của nhóm chuyên môn/tổ chuyên môn/Ban Giám hiệu…về việc giáo viên về trình độ tin học đạt chuẩn kĩ năng về sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy học, giáo dục.

Hoặc chứng chỉ hợp lệ xác nhận trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11/03/2004 do Bộ Thông tin và Truyền thông.

Hoặc kế hoạch và kết quả thực hiện kế hoạch dạy học, công tác hàng năm có tích hợp ứng dụng công nghệ, thiết bị công nghệ trong dạy học và công tác quản lý học sinh.

Là không hiểu hay cố tình không hiểu?

Trong các phần thu nhận minh chứng về tiêu chí ngoại ngữ và vi tính có cụm từ “sử dụng được…” và từ Hoặc có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học.

Việc xếp chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông theo Thông tư 20 quá phức tạp

Chứng tỏ, chuẩn mới cũng chỉ yêu cầu giáo viên “sử dụng được” hoàn toàn không yêu cầu buộc giáo viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ và vi tính.

Nhiều giáo viên cho biết, sử dụng được ngoại ngữ theo yêu cầu của chuẩn mới “các từ ngữ giao tiếp đơn giản bằng ngoại ngữ” thì rất nhiều thầy cô sẽ đạt ở mức này.

Bởi, 10 năm học ngoại ngữ ở phổ thông, 3 - 4 năm học ở trường cao đẳng hoặc đại học hầu như thầy cô giáo nào cũng có được vốn kiến thức ngoại ngữ nhất định để giao tiếp đơn giản như yêu cầu

Với trình độ vi tính cũng thế, gần như 100% giáo viên đều biết vi tính để soạn giáo án, vào phần mềm Vendu đánh giá nhận xét học sinh hằng kỳ…

Vậy mà không ít trường học hiện nay, lại dùng chiêu thức ép buộc tất cả giáo viên trong trường phải có 2 loại chứng chỉ này mới đánh giá giáo viên đủ chuẩn.

Có hiệu trưởng còn cho rằng, giáo viên nào không có 2 loại chứng chỉ trên sẽ bị xếp vào loại không đạt chuẩn.

Ùn ùn đi “học” chứng chỉ trong nỗi ấm ức.

Giáo viên nào chẳng sợ bị xếp vào loại chưa đạt chuẩn. Xếp như thế chẳng khác nào tự sa thải mình.

Bởi thế, sự sợ hãi đã buộc họ tìm đến các trung tâm để đăng kí nộp tiền thi lấy chứng chỉ.

Bỏ ra khoảng hơn 2 triệu đồng [có nơi gần 4 triệu] là có ngay 2 loại chứng chỉ mang về nộp.

Để có khoản tiền này, không ít thầy cô giáo đã phải đi vay mượn tiền, bóp chặt chi tiêu hàng tháng để trả dần.

Chỉ sướng cho các trung tâm ngồi rung đùi mà vẫn có người tìm đến nộp tiền.

Thông tư quy định trình độ ngoại ngữ, trình độ vi tính của giáo viên là không sai.

Cách mà khá nhiều địa phương dựa vào đó để ép buộc giáo viên tìm cách “mua” chứng chỉ mới là đáng trách.

Mai Hoa

Video liên quan

Chủ Đề