Phân tích phần thích thực trong văn tế nghĩa sĩ cần giuộc

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Bài số 1

Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Nhắc về ông, ta không những nhỞ đến tác phẩm nổi tiếng Truyện Lục Vân Tiên, mà còn luôn khâm phục ông với tư cách là một sĩ phu yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu với khúc ca hùng tráng Văn tế nglũa sĩ cần Giuộc đã thực sự tạo nên một cơn sóng ngầm.

mãnh liệt thúc đẩy phong trào chống Pháp lúc chúng vừa mới đặt chân đến bờ cõi nước ta cách đây gần một trăm năm mươi năm. Đặc biệt, bài văn tế đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân nghĩa sĩ cần Giuộc đã kế thừa truyền thống quật khởi, ngoan cường và nồng nàn tình yêu nước của cha ông xưa, họ đã góp phần làm sáng chói trang sử đánh giặc của dân tộc ta.

Bài văn tế này là một tác phẩm có giá trị rất lớn trong số những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiêu. Đến mức Tùng Thiện Vương – Miên Thẩm đánh giá ngang hàng với  ‘Quốc ngữ ‘ của Tả Minh Khâu, với  ‘Quốc thương ‘ của Khuất Nguyên thời Đông Chu bôn Trung Quốc. Hơn thế nữa, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng đặt bài văn này ngang hàng với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, rằng:  ‘Một hên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thát thế nhưng vẫn hiên ngang ‘. Có thể xem Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là  ‘ngôi đền thiêng ‘ bất khả xâm phạm.

Quả thật là như vậy, Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc trước hôt là một tiếng khóc cao cả: Khóc cho đất nước, cho nhân dân trong  ‘cơn bân loạn ‘. Khóc cho vong linh của những nghĩa sĩ cần Giuộc đã anh dũng hy sinh vì vận mệnh đất nước. Cao cả vì đây là tiếng khóc bi thương nhưng không bi lụy, cao cá vì khóc cho những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, cao cả vì tiếng khóc ấy đã hòa vào núi sông thành khúc ca bi tráng và hào hùng về truyền thống đánh giặc của dân tộc ta.

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền Lòng dân trời tỏ.

Cáu mở đầu ngắn gọn nhưng đã phác họa lại được bôi cảnh một thời đại mà các nhà sử học gọi là  ‘đau thương nhưng anh hùng ‘. Đất nước đang lâm vào cảnh tang tóc đau thương, nhân dân ta phải dùng lực lượng tinh thần để đối phó với lực lượng vật chất mạnh hơn rất nhiều lần. Vê của câu văn gợi lên sự nhức nhôi về phương diện lịch sử:  ‘súng giặc dứt rền ‘. Lời văn như vẽ lên trước mắt ta những hình ảnh điểu linh do tội ác của giặc Pháp gây nên:

Bến Nghé của tiền tan bọt nước Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

(Chạy giặc)

Còn tan tác hơn thế nữa khi những em thơ lơ xơ, dáo dác bỏ nhà chạy trong làn tên mũi đạn:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất Ổ bầy chim dáo dác bay.

(Chạy giặc)

Đất đai dường như có linh hồn  ‘đất rền ‘ như cơn đau quặn thắt phải quằn quại rên xiết, cũng lồng lộn căm hờn dưới gót giàv tàn bạo. Câu văn đang sôi động, chợt nhiên như sững lại, lắng xucíng đầy chất tự sự: Lòng dân trời tỏ.

Giá trị thiêng liêng được nhấn mạnh. ‘Trời tỏ‘ là khẳng định sự chính nghĩa: sống vì người khác, hy sinh cho người khác, ở đây, ta chợt bắt gặp một tư tưởng tiến bộ đến kinh ngạc của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho đã từng quen sống với nề nếp của cửa Khổng sân Trình, nhưng lại vượt ra khỏi cái khung tư tưởng cổ xưa, tác giả đã tỏ ra quan tâm đến người dân đen, chú Ý đến cái  ‘lòng‘ của họ bằng những tình cảm trân trọng và hiểu biết sâu sắc về sự hy sinh của họ.

Ở đây, ta bắt gập cặp phạm trù  ‘còn‘, ‘mất‘:

Mười năm công vỡ ruộng, chưa át còn danh nổi tợ phao Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ. ‘Chưa chắc còn‘, ‘tuy là mất‘, nó vừa gợi lên thân phận của những mảnh đời khốn khó vừa gợi lên chí khí vì đại nghĩa của chính những con người bình dị chân quê ấy. Cách nói phủ định nhưng đã khẳng định được cái nhìn của tác giả đề cao một nhân sinh quan ‘chết vinh hơn sống nhục‘, đề cao hành động  ‘vị quốc vong thân‘ và rõ ràng tiếng thơm của họ, hành động của họ, tiếng binh khí thô sơ dạo nào đã hòa vào hồn thiêng sông núi, tạo khúc vọng thanh thành bài ca bất tử về những anh hùng, đã làm hồng thêm trang sử đánh giặc của dân tộc ta.

Ở đây hình tượng người nông dân, hay nói đúng hơn là những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã được khắc họa một cách sinh động, một thứ sinh động về cái cơ cực, lầm than, sinh động từ trong cái ban chất bình dị vốn dĩ muôn đời nay của họ. Thực ra, trước cụ Nguyễn Đình Chiểu, đã nhiều người cũng thấy nỗi cơ cực, lầm than của người nỏng dân. Nguyễn Trãi cũng là đấng vĩ nhân hiếm có của lịch sử dân tộc, còn đối với Nguyễn Đình Chiểu thì đây là lần đầu tiên nông dân Việt Nam được bước vào văn học thành văn với tư thế. đường hoàng, đỉnh đạc, mang tầm vóc và vỏ đẹp có thực của mình. Nguyễn Đình Chiếu đã xuất sắc khi dựng thành công về tượng đài nghệ thuật mang chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.

Vượt ra khỏi những ước lệ xưa cũ, người nghĩa sĩ cần Giuộc xuất hiện mới chân chất làm sao, rõ ràng ta thấy họ đúng là những dân ấp dân lân, lam lũ.

Cui cút làm ăn Toanlo làm khó.

Đó là những nông dân quanh năm một nắng hai sương với ruộng đổng, dù nghèo khổ nhưng vẫn bình yên trong những lũy tre làng mộc mạc, họ chưa hề có khái niệm ‘trường nhung‘, ‘cung ngựa‘.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu Ở trong làng bô.

Thế mà, lạ thay khi giặc Pháp đem quân xâm lược quê hương, thì những con người bình dị kia lại chợt nhiên hóa phi thường, nhưng ngôn ngữ của họ sao mà gần gũi thân quen quá vậy.

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Ba năm trôi qua, kể từ ngày quân Pháp nã phát pháo đầu tiên tại cảng Đà Nẵng (1858). Ba năm ấy, dân chúng Nam Bộ đã kinh tởm cái mùi bẩn thỉu, đáng ghét của loài mọi cướp nước, ‘ghét thói mọi như nliù nông ghét cỏ‘. ở đây, khái niệm man di, man rợ thông qua tác giả thì người nông dân dã định nghĩa một cách thú vị và dễ hiểu, ở đây, nước nhỏ, không có nghĩa là mọi, là man di như kiểu lập luận của giặc Tàu xưa, mà ‘thói mọi‘ trong lập luận của cụ Đồ Chiểu, chính là phường cướp nước. Người nông dân đánh giặc, bằng những vũ khí thô sơ bằng những nổp nghĩ bình dị từ chỗ ‘ghét thói mọi‘, giản dị như nhà nông nhô cỏ trên ruộng lúa vậy thôi, nhổ bỏ cỏ là cái tất yếu để giữ gìn, tìm kiếm chén cơm manh áo. Thế nên, họ đánh giặc với tâm lý hoàn toàn tư nguyện, nhưng với một quyết tâm sông mãi với kẻ thù.

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này quyết ra tay bộ hổ.

Tâm hồn họ sao bình dị đáng yêu đến thế, họ đánh giặc nhưng lòng sao mà bình dị, trong sáng đến thế! Họ không đắn đo, không lập luận về cái chí như Nguyễn Công Trứ ‘Phải có danh gì với núi sông‘, mà là:

Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Cái từ đầy chất Nam Bộ ấy ‘chẳng qua là‘ đã hàm chứa tất cả tâm hồn, nếp nghĩ của họ  ‘mến nghĩa ‘. Vâng, họ mến nghĩa và họ chỉ là những nông dân, mãi mãi chính họ cũng sẽ nghĩ như thế. Họ, chính họ, những con người bé nhỏ nhưng sao mà vĩ đại thế! Như những kẻ vô danh từng tạo nên bao thần kỳ trong những câu chuyện  ‘ngày xửa ngày xưa‘, đơn sơ như việc trồng cây tre cho Thánh Gióng có dịp nhổ bung lên quất vào đầu giặc Ân hung bạo. Họ đứng trên mọi thời đại, họ làm nên lịch sử, và khi cần họ trở thành chiến sĩ theo tiếng gọi của non sông:

Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lóp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm ‘ Không ai nhở mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Phải nói rằng, hình ảnh người nghĩa sĩ Cần Giuộc còn can đảm hơn cả Kinh Kha ngày xưa khi đi giết Tần Vương. Tại sao vậy? Bởi Kinh Kha vốn là kẻ võ nghệ hơn người, có kiếm báu và kẻ thù cũng tương xứng về binh khí. Còn người nghĩa sĩ cần Giuộc chỉ là những người dân quê mộc mạc, ‘mười tám ban võ nghệ chưa thông ‘vũ khí là ‘Gươm deo dùng bằng lưỡi dao phay‘; thế nhưng họ đối diện với địch quân có phương tiện chiến tranh tối tân, loại vũ khí có thể giết người cách xa hàng ngàn mét.

Người nông dân nghĩa sĩ cần Giuộc cũng đã từng làm cho ‘mã tà, ma ní‘ hồn kinh, cũng ‘chém rớt dầu quan hai họ‘. Họ dũng cảm như thế, phi thường như thế, họ lướt vào khói đạn như những cơn cuồng phong đầy thịnh nộ trước quân thù.

Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc củng như không;

Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh…

Đoạn thơ được sử dụng nhiều cặp động từ dồn dập, dứt khoát, liên tiếp như chính những thao tác của nghĩa quân  ‘xô cửa xông vào‘,  ‘đạp rào lướt tới‘, ‘đâm ngang‘,  ‘chém ngược‘ với một không khí sôi động, quả cảm, tung hoành giữa chiến trường của những người  ‘mến nghĩa‘, thật hào hùng, oanh liệt.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Âm điệu thơ dồn dập như bão táp, thần phong làm rung chuyển cả một bãi chiến trường, thì bỗng dưng lắng xuống, chợt hoang lạnh, điêu linh.

Một giấc sa trường rằng chữ ‘hạnh‘, nào hay da ngựa bọc thấy, Trăm năm âm phủ ấy chữ ‘quy‘ nào đợi gươm hùm treo mộ Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Trong một hoàn cảnh lịch sử như thế, khi mà triều đình Huế lúng túng và nhu nhược đầu hàng để cố bám víu vào cái ngôi vua của mình. Khi ấy, người nông dân cả nước nói chung, Nam Bộ nói riêng và cụ thể hơn nữa là người nông dân – nghĩa sĩ cần Giuộc quá đơn độc trước cuộc chiến không cân sức với kẻ thù, và cái tất nhiên đã xảy ra: Họ ngã xuống, nhưng đấy là cái ngã xuống với tư thế của những dũng sĩ, cùa những anh hùng có tầm vóc lịch sử, và trở thành những con người bất tử.

Nguyễn Đình Chiểu đã khóc cho những nghĩa sĩ cần Giuộc và cũng khóc cho gia đình họ. Chỉ một câu ngắn thôi, ngắn như những vệt nước mắt khô cạn, và mà rát như cõi lòng đang chảy máu.

Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều

Não nùng thay, vợ yếu tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Nguyễn Đình Chiểu nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những con người vị nghĩa mà hy sinh, khóc cho những anh hùng thât thê. Họ nằm xuống, non sông cũng nhuộm màu u buồn, tang tóc và lòng người cảm thương, đau đớn. Cái chết của họ là cái chết của danh tiết, của nghĩa cả và rạng ngời khí khái:

Thà thác mà đăng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh Hơn còn chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Cái khí khái mà cha ông ta đà từng trải qua, Trần Bình Trọng đã hét vào mặt giặc Tàu cách đây đã gần một ngàn năm trước: ‘Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vua đất Bắc‘.

Biết sẽ chết nhưng vẫn đi cứu nước đó là hành động của bậc anh hùng. Biết yếu thế ‘ nhưng vẫn hiên ngang xông trận, đó là cốt cách của bậc nghĩa sĩ. Vui lòng chết vì non sông, tấm gương ấy đến muôn đời sau vẫn sáng ngời.

Dùng văn tế để viết lên một bản bi hùng ca, đó là điều độc đáo của Nguyễn Đình Chiểu, cái độc đáo hơn nữa là từ ngôn ngữ đời thường quá dỗi dung dị được Nguyễn Đình Chiểu đặt đúng chỗ, đúng việc, đúng người, đúng tâm trạng làm cho nó trở nên bất hủ. Đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ngoài những bản chất mộc mạc đáng yêu, hay hào hùng khi lâm trận, ta còn bắt gặp một tâm trạng đau thương của người chiến sĩ chưa hoàn thành tâm nguyện diệt thù nên mong mỏi được chôn theo thanh kiếm bên mình. ‘Gươm hùm treo mộ ‘ một hình tượng có tính cô điển nhưng cũng đầy chát lãng mạn. Cái lãng mạn của những bậc anh hùng  ‘Sống đánh giặc, thác củng đánh giặc‘, đã thể hiện lý tưởng yêu nước thật tuyệt vời. Bài tế văn khép lại mà âm vang vẫn như còn đâu đây, không những chỉ có bây giờ mà nó sẽ mãi mãi âm vang đến muôn đời sau. Bởi giá trị đích thực của cuộc sống, của đức hy sinh, của nghĩa cả, của lòng yêu nưởc xuất phát từ những trái tim bình dị, trong sáng được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa đầy tính hiện thực và nhân bản. Có thể khẳng định rằng, Nguyễn Đình Chiểu qua bài tế văn này đã có một đóng góp to lớn trong nền văn học yêu nước của Việt Nam.

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Bài số 2

HƯỚNG DẪN

1. Đặc trưng cơ bản của thể văn tế và bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc:

–   Về tên gọi, lúc đầu văn tế có một nghĩa rất rộng, bao gồm các loại văn dùng để tế thần, tế thánh, tế trời đất, núi sông và cả các loại văn dùng để chúc mừng, như chúc thọ, chúc thăng quan tiến chức. Loại văn này thường có tên gọi là tế văn, kì văn (kì: tế lễ), chúc văn. Dần dần về sau, văn tế dùng theo nghĩa hẹp để khóc thương, tưởng nhớ người chết trong giờ phút vĩnh biệt. Ngày nay gọi văn tế là điếu văn.

–   Về chức năng, văn tế gắn với phong tục tang lễ, bày tỏ tình cảm của người còn sống đối với người đã mất. Bài văn tế thường có hai nội dung cơ bản: kể lại cuộc đời phẩm hạnh, công đức của người đã mất, thể hiện tình cảm của người còn sống trong giờ phút vĩnh biệt (nỗi đau xót, tiếc thương, ghi nhớ công ơn, tâm nguyện noi theo…). Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, chức năng của văn tế có thể được vận dụng linh hoạt: thuần tuý là tiếng khóc (văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái), khóc thương và ngợi ca, mang tính sử thi bi tráng (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Châu Trinh của Phan Bội Châu), đùa vui hóm hỉnh (Văn tế sống vợ của Trần Tế Xương), châm biếm đả kích (nhiều bài văn tế đả kích bọn thực dân đế quốc trong văn học cách mạng thời Pháp thuộc).

–   về bố cục, bài văn tế thường gồm bốn phần, phù hợp với diễn biến tình cảm, tâm trạng của người còn sống tưởng nhớ người đã mất. Đoạn mở đầu (Lung khởi), luận chung về lẽ sống chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất, thường mở đầu bằng những từ thương ôi, hỡi ôi. Đoạn thứ hai (Thích thực) kể cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ nhớ linh xưa. Đoạn thứ ba (Ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đối với người đã chết. Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế, thường kết thúc bằng các từ Ô hô, ai tai (hỡi ôi, thương thay). Cũng có khi đoạn thứ ba và đoạn kết được ghép làm một.

–   Về ngôn ngữ, thường sử dụng nhiều thán từ những từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm.

–   Về lời văn, giọng điệu, có thể viết bằng văn xuôi (Văn tế chị của Nguyễn Hũu Chỉnh), văn vần (theo thể song thất lục bát, như Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du) hoặc văn biền ngẫu. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc viết theo thể phú Đường luật, có vần, có đối. Giọng điệu chủ đạo của bài văn tế là bi thương, thống thiết.

2.   Bút pháp hiện thực trong việc khắc hoạ hình tượng người anh hùng nông dân nghĩa sĩ

Thành công nghệ thuật nổi bật của Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là tác giả sử dụng bút pháp hiện thực để khắc hoạ hình tượng người nông dân nghĩa sĩ: khi gợi tả cuộc sống của những người “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, khi khắc hoạ đời sống tinh thần, tình cảm (trông tin quan như trời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ), khi miêu tả hành động anh hùng, sức mạnh quả cảm (Ngoài cật có một manh áo vải, nàn đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ….).

Với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, người anh hùng áo vải mang vẻ đẹp cao cả, lớn lao, song hết sức chân thật, bình dị, khác với kiểu người anh hùng thường được lí tưởng hoá qua bút pháp ước lệ, tượng trưng thường xuất hiện trong văn học trung đại.

3.   Giọng văn thống thiết, bi tráng nhưng thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc và nội dung phản ánh
Khi thể hiện cảm xúc đau xót, tiếc thương, nhịp điệu câu văn trầm lắng, khi kéo dài như lời than, khi đút đoạn như những tiếng nấc uất nghẹn: Đoái sông cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ; Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Lúc tái hiện trận công đồn với những hành động anh hùng quả cảm của nghĩa quân thì nhịp điệu câu văn lại nhanh, mạnh, sôi nổi, hào hùng: Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Bài số 3

Văn tế nghĩa sĩ Cẩn Giuộc như một “bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên ngang” mà lạ thay gót thời gian không hề tàn phá nổi. Nguyễn Đình Chiểu – con người ấy đã đi xa chúng ta từ lâu lắm rồi nhưng những áng văn thơ của người còn trẻ mãi, đỏ mãi.

Hỡi ơi

Súng giặc đến rền Lòng dân trời tỏ.

Câu thơ tứ tự mở đầu tách đôi ra làm hai vế gãy gọn nhưng sức khái quát của nó thật lớn. Chỉ ngần ấy câu chữ đã vẽ lên một cách, toàn diện về những điều mà người viết muôn gửi gắm: tội ác và nghĩa cả, cái đau thương tang tóc và cái cao lớn đẹp đẽ, một bên là súng giặc mâu thuẫn với lòng dân.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn mà danh nổi tợ pha

Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất mà tiếng vang như mỏ.

Đã rõ hơn rồi, tác giả muốn nói điều gì. Câu thơ phản ánh sự tương phản, giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây” – sức vùng lên mạnh mẽ, quyết liệt, mau lẹ của những người nông dân. Mười năm vỡ ruộng ít ai biết đến, thế mà một trận nghĩa đánh Tây, những con người nghĩa sĩ đã gây dược “tiếng vang như mỏ”. Tứ thơ như báo trước cái anh hùng của họ, sức mạnh của họ và cả cái bi thương tất yếu nữa.

Xem thêm:  Phân tích đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng) – Văn mẫu lớp 11

Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn

Riêng lo nghèo khó.

Hình ảnh những con người bình thường hiện lên, những con người sẽ làm nên lịch sử ấy, họ chẳng phải là ai cả, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, bụi chuối vì nghĩa lớn mà hi sinh. Họ hi sinh khi “Tổ quốc cần”. Và hình ảnh của họ trở nên cao đẹp từ đó. Họ chỉ là những người quen lấm láp với công việc cấy cày.

Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung,  chỉ biết:

Ruộng trâu ở trong làng bộ.

Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.

Cuộc sông của họ lặng thầm, ngày ngày chỉ biết lăn lộn cùng miếng cơm manh áo nhưng cuộc sống nghèo đói vẫn ghì sát đất. Họ chưa bao giờ hình dung nổi việc binh đao. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những người “dân đen” “con đỏ”, lo sợ, trông đợi rồi thất vọng.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng Trông tin quan như trời hạn trông mưa Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Chờ mong “tin nhạn” nhưng rồi nhạn vắng bóng. Họ đi từ thắc thỏm hi vọng đến vô vọng, từ lo sợ, hoảng loạn đến căm ghét – cái căm ghét trong mơ hồ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.

Cho dù sự căm ghét chỉ được phôi thai qua ý niệm mơ hồ nhưng sự phẫn nộ đã dâng lên ngùn ngụt. Họ muốn lao ra bằng tay không để “ăn tươi nuốt sống kể đã gây bao tội ác”. Đọc tới đây, ta chợt nhớ lại lời hịch sang sảng, vang vọng một thời của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” (Hịch tướng sĩ). Sự day dứt, đau đớn vò xé tâm can thôi thúc con người hành động, thôi thúc con người muốn “nuốt gan uống máu quân thù” cho hả dạ. ở Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy. Họ bắt đầu nghĩ tới non sông đất nước và cảm thây nhục nhã nếu như cứ để cho lũ “chó má” ấy giày xéo lên những giá trị tinh thần của dân tộc ngàn thu văn hiến.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu

Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bản chó.

Ý thức được như thế, họ đã đi đến quyết tâm làm một cuộc nổi dậy. Họ vùng lên tinh thần sẵn sàng tự nguyện.

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Họ đã hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Họ chẳng cần phải trôn tránh khi tiếng gọi của quê hương tha thiết đến thế. Họ biết phải chiến đấu, xả thân để giữ lấy bờ ao bụi chuối, giữ lấy mảnh đất biết mấy thân yêu gắn bó, giữ lấy những điều thiêng liêng mà họ cho là không liên quan gì đến “cha ông nó” cả. Hình ảnh của họ thật đẹp, những tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh ấy thật khác xa với người lính trước kia khi phải đối mặt với tiếng trống giục quân bắt bớ “bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”.

Người nghĩa sĩ của Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc chiến đấu vẫn mang một màu bình dị sáng trong. Họ là những người “dân ấp dân lân” với những vũ khí thô sơ, chỉ là một ngọn tầm vông, một nùi rơm, con cúi, thế nhưng họ đã dệt nên những trang sử hào hùng, vẻ vang. Họ thật cao đẹp, thật anh hùng và tràn đầy dũng khí. Bên trong “manh áo cật” đáng thương, nhỏ bé lại chứa đựng bao điều lởn lao, cao cả.

Hỏa mai đánh hằng rơm con cúi củng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng hằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.

Họ là những con người bình dị nhưng anh hùng. Khi cầm cuốc làm ruộng họ là những con người hiền như đất, như khoai song khi đôi mặt với kẻ thù, họ không kém phần dữ tợn. Họ hòa hợp bằng tinh thần đoàn kết của người dân áo vải đất Việt. Cái tinh thần đoàn kết mà trước đây Nguyễn Trãi từng ngợi ca trong Cáo bình Ngô.

Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.

Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ – của những con người cụ thể trong công cuộc đárih Tây bằng một tâm trạng nô nức, phấn chấn.

Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không

Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có

Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh

Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu sung sướng vung lên như một thanh gươm trên chiến trường trước sức mạnh ồ ạt, tấn công dồn dập như vũ bão của những người nghĩa sĩ. Cách ngắt nhịp ngắn gọn đã tạo nên một khí thế xông trận bừng bừng, mang hơi thở gấp gáp của cuộc hỗn chiến. Trong khung cảnh ấy, tung hoành giữa chiến địa chỉ còn có người nông dân mộ nghĩa anh dũng, oai phong lẫm liệt. Giọng thơ có khác nào hồn cáo của Nguyễn Trãi mấy trăm năm về trước.

Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn

Nguyễn Đình Chiểu có lẽ cũng muôn lắm, để viết được những sự thát bại chồng chất của kẻ thù. Nhưng ở đây ta thây trận đánh dù có rầm rộ đến đâu đi nữa nó cũng mang tính chất của người dân cầm cuốc, cầm cày đã quen. Họ thất bại là phải, bởi lẽ:

Mười ban vỗ nghệ nào đợi tập rèn

Chín chục trận binh thư không chờ bày bố.

Đấy là những cơn người anh hùng nhưng rất đáng thương. Nhìn hoàn cảnh đánh giặc của họ, ai mà không xót xa cho những con người cụ thể và xót xa cho cả toàn đất nước. Bởi thế âm điệu thơ như mặt hồ đang nổi sóng bỗng dưng lắng xuống, đang hừng hực lửa chiến trận bỗng chóc trở nên hoang vắng lạnh lùng, mang màu sắc bi thương não nuột.

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ…

Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.

Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Những câu thơ như câm lặng trôi trong niềm kí ức của tác giả. Nhà thơ gửi một nỗi tiếc thương vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ làm cho cả trời đất, cây cỏ tang thương, nhỏ lệ, cái chết nhuốm màu sầu ải lên vạn vật. Cả một bầu trời âm u, tối tăm trước sự hi sinh mất mát của những người nghĩa sĩ.

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.

Đồng lang sa một khác đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.

Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Những hình ảnh thương tâm ấy gặm nhấm tâm can ta, linh hồn ta đau nhức. Nguvễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiêng khóc cho những người anh hùng hi sinh vì Tổ quốc. Từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của đất nước. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu đã hội tụ lại mọi nỗi đau để cất lên tiếng khóc cao cả.

Sau phút giây đau thương, nức nở, lời ván đang đắm chìm trong thảm đạm bỗng tỉnh táo hẳn lên, nêu bật một quan niệm tuyệt vời về nhân sinh, về lẽ sồng và cái chết.

Sống làm chi theo quân tả dạo, quăng I’ùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.

Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.

Hơn còn mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.

Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một quan điểm mang tính nhân văn sâu sắc: Thà chết chứ nhất định không chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô danh. Câu thơ “sống đánh giặc thác cũng đánh giặc” dược nêu cao như một chân lí sống rực rỡ, chói ngời. Chân lí ấy đã xua tan bao cảm giác bi thương, mất mát của người nghĩa sĩ đã dâng trọn tấm thân mình cho đất nước, quê hương.

Thác mà trả nước non rồi nợ, sanh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.

Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.

Họ là những tấm gương sáng cho muôn đời con cháu mai sau. Linh hồn người nghĩa sĩ trong tưởng niệm thành kính của tác giả vẫn níu lấy cuộc sống để theo đuổi đến cùng sự nghiệp giết giặc cứu nước, Với Nguyễn Đình Chiểu, họ vẫn sống và được ngưỡng mộ.

Ôi chết thế không thể nào chết được

Không thể chết những người dân yêu nước

Những con người không chịu ô danh.

(Tố Hữu)

Họ đã vui vẻ hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một ngưòi nông dân “cày xong thửa ruộng”. Cái chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, bình thản. Nhưng cái yên lành, bình thản ấy lại gợi nỗi dau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.

Với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường, Nguyễn Đình Chiểu đã xâv dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa hùng tráng. Qua “Bức tượng đài nghệ thuật” ấy tác giả gửi gắm một quan niệm sống tốt đẹp. Vdn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu tình dân, nghĩa nước.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương – Văn mẫu lớp 11

Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn được mở ra. Và chúng ta – những người con của đất nước phải nhớ giữ lấy giá trị ngàn đời mà bao thế hệ, bao lớp người từng xây dựng nên giang sơn, gấm vóc của ngày hôm nay. Điều mà Nguyễn Khoa Điềm đã xúc động viết lẻn những lời thơ xiết bao ân nghĩa.

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.

(Đất Nước)

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Bài số 4

Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyến Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lên mong ước thiết tha: 

“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này?” 

Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”

Đình cao nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ mù đất Đồng Nai đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. 

Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay.Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này – bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. 

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên 1 thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc hoạ về 1 nghĩa quân, 1 anh hùng mà đông đảo những người “dân ấp dân lân mến nghĩa quân làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cái tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước. Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực và ai vãn, ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này. 

Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo: 

“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” 
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ sở. 

“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…”

        (“Chạy giặc”).

Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và ság ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước, chính diện của “tượng đài nghệ thuật” ấy. 
Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với “cung ngựa trường nhung”: 

“Nhớ linh xưa: 
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó 

Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”. 

Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc: 

“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. 

Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi long yêu nước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ: 

“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. 

Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. 

Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải”. Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”. 

“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp: 

“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. 

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”. 
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần quả cảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó, ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà thơ nào văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế. 

Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thông thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn: 

“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”. 

Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút của nhà thơ nức nở trên từng trang giấy” (Hoài Thanh): 

“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bòn xế dật dờ trước ngõ”. 

Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào: 

“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ” 

Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng cho “tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc: 

“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”. 

Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta. 

Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miên Thẩm). Một giọng văn vừa hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, và đã đi cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cũng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ, cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyên Đình Chiểu”

Thanh Bình tổng hợp

Thống kê tìm kiếm

  • phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
  • phân tích văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
  • mở bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
  • bài viết số 3 lớp 11 văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
  • Phan tich tac pham van te nghia si can giuoc
  • nghi luan bai van te nghia si can giuoc