Phụ cấp nuôi con nhỏ tối đa bao nhiêu tiền năm 2024

Trường hợp người lao động đang nghỉ thai sản con thứ 2, thì công ty có phải trợ cấp con nhỏ dưới 6 tuổi con thứ 01 cho người lao động không?

Theo Điều 15 Bộ luật lao động 2012 thì: Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Hiện pháp luật lao động không có quy định bắt buộc rằng công ty phải trả trợ cấp nuôi con nhỏ cho người lao động, do đó, vấn đề này tùy thuộc vào sự thảo thuận của các bên cũng như chính sách hỗ trợ của công ty.

Tuy nhiên, nếu như người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản thì sẽ được BHXH chi trả chế độ theo như sau:

Theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì mức hưởng chế độ thai sản 2019 có quy định trường hợp của chị đồng nghiệp của bạn như sau:

- Khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, người lao động được hưởng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

Trong trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản là bình quân các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội.

- Theo đó, lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.

Căn cứ Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 17/7/2021 của UBND tỉnh Bạc Liêu về việc quy định đối tượng, mức chi chính sách liên quan đến hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, người lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm do ảnh hưởng dịch COVID-19 chỉ hưởng chính sách hỗ trợ một lần.

Đối tượng đang mang thai được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/người/lần; đối tượng đang nuôi con đẻ hoặc con nuôi hoặc chăm sóc thay thế trẻ em chưa đủ 6 tuổi được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/trẻ em/lần chưa đủ 6 tuổi và chi hỗ trợ một người là mẹ hoặc cha hoặc người chăm sóc thay thế trẻ em.

Qua kiểm tra, chồng bà Lê Thị Diễm My đã nhận tiền hỗ trợ đợt 1 với số tiền là 1.400.000 đồng và trong hồ sơ đề nghị hỗ trợ không có kê khai đang nuôi con nhỏ chưa đủ 6 tuổi.

Ngoài ra, UBND Phường 5 đã hoàn thiện hồ sơ để chi hỗ trợ bổ sung cho người lao động đợt 1 với số tiền 100.000 đồng/người theo Quyết định số 185/QĐ-UBND ngày 20/9/2021 của UBND TP. Bạc Liêu về việc bổ sung kinh phí thực hiện hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng đại dịch COVID-19 trên địa bàn TP. Bạc Liêu (bổ sung thêm 2 ngày mất việc làm).

“Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Để quyết định một mức cấp dưỡng phù hợp cần phải xem xét đến hai yếu tố đó là “việc cấp dưỡng phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng” và phải “căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” đây là hai căn cứ quan trọng để Toà án quyết định nghĩa vụ cấp dưỡng khi hai bên không tự thoả thuận được.

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng” theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, nghiên cứu một số văn bản hướng dẫn trước đây có thể chỉ ra như sau:

Thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng: Là khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, đó là thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó.

Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xem xét và xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú (được hiểu thường trú hoặc tạm trú hoặc nơi học tập). Mức sinh hoạt bao gồm các chi phí thông thường cần thiết của người được cấp dưỡng như: chi phí cho việc ăn uống hàng ngày, chi phí về chỗ ở hoặc nơi ở đang ở thuê hay đã có nhà riêng, chi phí về quần áo, chi phí cho việc học hành( bao gồm các khoản học ở trường, học thêm và phục vụ kỹ năng khác),chi phí về khám chữa bệnh và các chi phí khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng. Hoàn cảnh sống của người được cấp dưỡng cũng là yếu tố quyết định về mức cấp dưỡng.

Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, khi quyết định việc cấp dưỡng nuôi con, Toà án thường ấn định mức cấp dưỡng dao động từ 20-30% mức thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trong trường hợp không xác định được mức thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng thì lương tối thiểu vùng sẽ là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc.

Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà có thu nhập ổn định, mà không thoả thuận được mức cấp dưỡng, thì có thể tham khảo Án lệ số 62/2023/AL được Hội đồng Thẩm phán TANDTC, đó là:

“[2] Xét kháng cáo của anh C đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước hạ mức cấp dưỡng từ 1.500.000đ/tháng xuống 1.000.000đ/tháng, thấy rằng: Theo Biên bản xác minh của TAND huyện Lộc Ninh (BL33) thì chi phí trung bình để chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa trẻ độ tuổi như cháu P cần 3.000.000đ/tháng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu P mỗi tháng 1.500.000đ (3.000.000đ : 2 người = 1.500.000đ/người) là phù hợp. Bởi lẽ, anh C là giáo viên có thu nhập ổn định, mức lương hàng tháng là 4.666.220 đồng (BL18), do đó kháng cáo của anh C đề nghị giảm mức cấp dưỡng xuống là không có căn cứ chấp nhận.”

Như vậy, Toà án căn cứ vào thu nhập ổn định của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và chi phí trung bình để chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa trẻ theo xác minh tại địa phương làm cơ sở giải quyết vụ án là hợp tình, hợp lý.

Trong trường hợp cụ thể tác giả nêu trong ví dụ, Toà án đã xem xét đến yếu tố đó là: anh A làm nghề tự do, thu nhập không ổn định để đưa ra quyết định buộc anh A phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu E và cháu F mỗi cháu ½ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm với mức lương tối thiểu là 1.490.000 đồng/2 = 745.000 đồng. Như vậy, anh A phải giao cho chị B tiền cấp dưỡng nuôi cháu E và cháu F là 1.490.000 đồng là phù hợp.

Bởi lẽ, bản thân anh A nuôi mình còn vất vả do làm “nghề lao động tự do nên nguồn thu nhập không ổn định” thì việc Toà án quyết định việc cấp dưỡng cho con như thế nào cũng phải xem xét đến “Thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng”. Do đó, nếu chỉ xét tới một yếu tố là phải bảo đảm “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng” thì anh A hoàn toàn không có khả năng.

Đồng thời, căn cứ vào khoản 2 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì: “2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Vì vậy, để bảo đảm cuộc sống của anh A, Toà án đã xem xét đến thu nhập hiện tại của anh và đưa ra một mức cấp dưỡng hợp lý để anh có thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. Chị B hoàn toàn có thể yêu cầu Toà án buộc anh A phải tăng thêm nghĩa vụ cấp dưỡng nếu như sau này anh A có thu nhập ổn định và khả thực tế của anh A có thể cấp dưỡng được mức cấp dưỡng cao hơn. Còn việc anh A giao tiền cấp dưỡng cho chị B không đủ là do anh A không có nguồn thu chứ không phải là khó khăn khi Toà án tuyên số tiền buộc phải cấp dưỡng như thế nào. Cơ quan Thi hành án dân sự có thể giải thích cho người nhận cấp dưỡng hiểu đây là tình hình khách quan và Cơ quan Thi hành án đã làm đúng quy định của pháp luật.

Hiện nay, TANDTC đã ban hành dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình. Tại Điều 6 dự thảo có hướng dẫn như sau: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền kề” để đảm bảo quyền lợi cho con là người dưới 18 tuổi trong các

Trợ cấp nuôi con nhỏ tối đa bao nhiêu?

Khoản 7 Mục II Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2021 đã nêu rõ: Người lao động tại điểm 4, 5, 6 Mục II đang mang thai được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/người; đang nuôi con hoặc chăm sóc thay thế trẻ em chưa đủ 06 tuổi được hỗ trợ thêm 1.000.000 đồng/trẻ em chưa đủ 06 tuổi và chỉ hỗ trợ cho 01 người là mẹ hoặc cha.

Phụ cấp còn nhớ bao nhiêu tuổi?

Trả lời: Đối tượng hưởng chính sách là trẻ em mầm non, bao gồm cả trẻ em nhà trẻ (03 đến 36 tháng tuổi) và trẻ em mẫu giáo (03 − 05 tuổi), đáp ứng các điều kiện sau: - Đang học tại các cơ sở giáo dục mầm non tư thục, dân lập đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động theo đúng quy định.

Trợ cấp còn nhớ bao nhiêu tiền?

Từ ngày 1-7-2023, mức trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nuôi con nuôi của người lao động cũng sẽ là 3,6 triệu đồng cho mỗi con (khi mức lương cơ sở thay đổi từ 1.490.000 đồng sang 1.800.000 đồng).