Quá trình hiện đại hóa văn học là gì

Tiền đề dẫn đến văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa là:

“Hiện đại hóa” văn học được hiểu là:

Qúa trình hiện đại hóa được chia làm mấy giai đoạn?

Thể loại chính của xu hướng văn học hiện thực là:

Đáp án không phải nội dung của bộ phận văn học không công khai?

Hình tượng trung tâm của bộ phận văn học không công khai là:

Thể loại văn học nào mới xuất hiện trong giai đoạn 1930 – 1945?

Trang chủ » Lớp 11 » Soạn văn 11 tập 1

Câu 1: [Trang 90  - SGK Ngữ văn 11 tập 1] Về đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945:a. Anh/chị hiểu thế nào về khái niệm “hiện đại hóa” được dùng trong bài học. Những nhân tố nào đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 đổi mới theo hướng hiện đại hóa? Quá trình hiện đại hóa đó diễn ra như thế nào?b. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 có sự phân hóa phức tạp như thế nào? Những điểm khác nhau giữa hai bộ phận văn học công khai và không công khai?

c. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng. Hãy giải thích nguyên nhân của tốc độ phát triển này.

Bài làm:

a. Khái niệm: Hiện đại hóa văn học Việt Nam là quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại trên thế giới

  • Các nhân tố đã tạo điều kiện cho văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 đổi mới:
    • Thực dân Pháp bình định xong đất nước tiến hành khai thác thuộc địa  Xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc theo hướng hiện đại hóa.
    • Xuất hiện nhiều đô thị mới và những tầng lớp mới.
    • Nhu cầu về văn hoá, thẩm mĩ ở trong nước có sự thay đổi.
    • Ảnh hưởng của văn hoá phương Tây [đặc biệt là Pháp].
    • Chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Hán và chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực, được phổ biến rộng rãi
    • Những nghề phục vụ cho văn học như nghề báo, nghề in, xuất bản cũng có sự phát triển; đời sống văn học trở nên sôi nổi.

==> Là nhân tố tạo điều kiện cho văn học Việt Nam đổi mới theo hướng hiện đại hóa.
b. Văn học phân hóa thành hai bộ phận:

  • Bộ phận văn học phát triển hợp pháp [công khai] gồm các sáng tác được đăng tải và xuất bản công khai. Những tác phẩm này vẫn có tính dân tộc và có tư tưởng lành mạnh nhưng không có được ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp chính quyền thực dân. Ngay trong bộ phận này cũng có nhiều xu hướng khác nhau: hiện thực, lãng mạn…
  • Bộ phận văn học phát triển bất hợp pháp và nửa hợp pháp [không công khai] là sản phẩm của các nhà văn – chiến sĩ. Đây là bộ phận văn học cách mạng. . Nó sẽ trở thành dòng chủ của văn học VN sau này

c. Nguyên nhân khiến văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng

  • Do thúc bách của thời đại
  • Do sức sống nội tại của nề văn học dân tộc.
  •  Do sự thức tỉnh ý thức cá tôi cá nhân.
  •  Văn chương đã trở thành nghề kiếm sống.

Từ khóa tìm kiếm Google: câu 1 trang 90 văn 11 tập 1, soạn văn câu 1 trang 90 văn 11 tập 1,trả lời câu 1 trang 90 văn 11 tập 1, soạn bài khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám năm 1945 văn 11

Lời giải các câu khác trong bài

Nêu các phương diện của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thếkỉ XX – 1945Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa-Khái niệm “hiện đại hóa” được hiểu là quá trình làm cho văn học thoát rakhỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại [VHTĐ] và đổi mới theo hìnhthức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học trên thếgiới.-Cơ sở xã hội:• Đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp xâm lược và đẩy mạnh công cuộc khaithác thuộc địa, làm cho xã hội nước ta có nhiều thay đổi: xuất hiệnnhiều đô thị và nhiều tầng lớp mới, nhu cầu thẩm mĩ cũng thay đổi.• Nền văn học dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn học Trung Hoa vàdần hội nhập với nền văn học phương Tây [cụ thể là nền văn học Pháp].• Chữ Quốc ngữ ra đời thay cho chữ Hán và chữ Nôm.• Nghề báo in xuất bản ra đời và phát triển khiến cho đời sống văn hóa trởnên sôi nổi.1. Quan niệm văn học và lí tưởng thẩm mĩ.a. Quan niệm văn họcVăn học trung đại Việt Nam:-Văn học trung đại Việt Nam bị chi phối bởi quan niệm sáng tác “Văn dĩ tảiđạo”, “Thi dĩ ngôn chí” – tức xem văn chương là công cụ, phương tiện đểthể hiện đạo đức thời phong kiến.-Nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục – giáo hóa của văn chương. Văn chương cóchức năng giáo hóa [giáo dục, làm thay đổi nhân cách của con người theohướng tốt đẹp hơn] và di dưỡng tính tình [giúp bản thân nhà văn thanh lọctâm hồn, bày tỏ tâm sự trung quân ái quốc, nuôi dưỡng nhân cách ngườiquân tử].-Độc giả đến với văn chương là để thấm nhuần tư tưởng đạo lý, tác giả sángtác theo kiểu tâm truyền, dùng văn chương để giáo huấn đạo đức.-Văn chương nghệ thuật có sứ mệnh thiêng liêng, cao cả, thần thánh hóa.-Người sáng tác văn học coi văn chương là “nghiệp” chứ không phải lànghề.Văn học hiện đại-Văn chương là một hoạt động nghệ thuật, đi tìm và sáng tạo cái đẹp, nhậnthức và khám phá cuộc sống.-Từ đầu thế kỉ XX, văn chương được coi là một nghề để kiếm sống, sáng tạonghệ thuật gắn với nhu cầu giải trí.-Xuất hiện khái niệm “nhà văn” và “nghề văn” với các quá trình đượcchuyên nghiệp hóa từ sáng tác, xuất bản, in ấn, phát hành.b. Lí tưởng thẩm mĩTrung đại• Cái đẹp gắn với đạo đức, thuộcvào những khuôn mẫu định sẵnHiện đại• Cái đẹp đa dạng, phong phú, gắnvới đời sống[xuân – hạ – thu – đông, tùng –cúc – trúc – mai, long – li – quy– phượng…]• Cái đẹp chỉ mang tính ước lệ,tượng trưng• Lấy thiên nhiên làm chuẩn mựccái đẹp, là thước đo mọi giá trịcủa tạo vật. Trong văn học trungđại, hình tượng thiên nhiênthường gắn với lí tưởng, đạo đức• Đề cao vẻ đẹp của con ngườithẩm mỹ của con người.VD.Văn học trung đại-Nhân cách của người quân tử xưa được ví như tùng, bách; vẻ đẹp của ngườigiai nhân được ví với liễu, mai.-Người phụ nữ có sự hết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp về hình thức và cái đẹp vềtâm hồn, họ là hiện thân của cái đẹp: đẹp người – đẹp nết. Người phụ nữ cóđức hạnh theo quan niệm của Nho gia [lễ giáo phong kiến] phải hội tụ đủ“Tam tòng, tứ đức” [Tại gia tòng phụ – Xuất giá tòng phu – Phu tử tòng tửvà Công – Dung – Ngôn – Hạnh]. Đó chính là vẻ đẹp đoan trang, mựcthước, gắn với chuẩn mực đạo đức của thời đại.-Các nhà văn, nhà thơ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp, so sánhngười phụ nữ với phong, hoa, tuyết, nguyệt nhằm tô thêm vẻ đẹp cao cả,tao nhã của họ.• Vẻ đẹp của Hạnh Nguyên trong “Nhị độ mai” được so sánh với “ngọc,nguyệt, mây”:“Người đâu trong ngọc trắng ngà,Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà ngà mây.”• Vẻ đẹp khuôn mẫu của Thúy Vân, Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” củaNguyễn Du:“Vân xem trang trọng khác vời,Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.Hoa cười, ngọc thốt đoan trangMây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.Kiều càng sắc sảo, mặn màSo bề tài sắc lại là phần hơn.Làn thu thủy, nét xuân sơnHoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”Văn học hiện đại-Các tác giả của nhóm Tự lực văn đoàn đã có những quan niệm thẩm mĩ mớicó tính thời đại về cái đẹp của con người, đặc biệt là con người đô thị. Conngười trong tác phẩm của nhà văn đã ý thức công khai rằng sắc đẹp tự thânlà một yếu tố giá trị cá nhân, là điều đáng tự hào của các nhân vật, vì thếcon người luôn có ý thức làm đẹp cũng như phô diễn sắc đẹp của bản thânmình. Phần lớn các cô thiếu nữ trong tác phẩm của Tự lực văn đoàn đều cóhình thức bề ngoài khá quyến rũ, hiện đại, không giống với vẻ đẹp mựcthước của người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung đại nữa. Cô đàoMơ trong truyện ngắn “Dọc đường gió bụi” của Khái Hưng là một cô gái cóvẻ đẹp “muôn phần diễm lệ”. “Hai đặc điểm của Mơ là cái giọng véo vonbổng trầm đúng bậc và tấm nhan sắc diễm lệ. Không phải là cái nhan sắcchín chắn, thùy mị kín đáo của phần nhiều các cô gái quê, nhưng là cáinhan sắc long lanh với đôi mắt hơi xếch, với cặp môi tươi thắm luôn nhíchmột nụ cười lẳng lơ, nồng nàn.”-Nếu như các nhà thơ cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp để làmnổi bật vẻ đẹp của con người thì nhà thơ Xuân Diệu lại lấy con người làmchuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên.“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”Điều đó đã thể hiện sự thay đổi về nhận thức , quan niệm về cái đẹp củaXuân Diệu – “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông thấy mùaxuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng củathiếu nữ đang kề gần. Đây là một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầytình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu, chứa đựng bao rung động tận đáylòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rấttrần tục.-Nguyễn Tuân có quan niệm rất mới về cái đẹp, cái đẹp không gắn liền vớiđạo đức. Ông từng cho rằng “Mỹ học vốn không là bà con với luân lí củathời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắp túi ngườita rất gọn và rất nhanh.”c. Cái “ta” và cái “tôi”Văn học trung đại-Cá tính nhà văn, nhà thơ chưa có điều kiện thể hiện đậm nét. Trong xã hộiphong kiến, cái tôi cá nhân không được coi trọng, các tác giả thường chỉviết theo cái ta đạo lí trong hệ thống thi pháp của văn học trung đại. Các tácgiả đều khách thể hóa bản thân, không nói về cái tôi của mình.-Từ khoảng thế kỉ XVIII trở đi, tình trạng khủng hoảng sâu sắc của ý thứchệ phong kiến đã thức tỉnh mạnh mẽ ý thức cá nhân. Cái tôi xuất hiện rõ néttrong tác phẩm của các tác giả Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát,Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,...-Chỉ có ba tác giả xưng tên mình trong sáng tác trung đại: Hồ Xuân Hương,Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ.“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôiNày của Xuân Hương mới quệt rồiCó phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi.”“Mời trầu” – Hồ Xuân Hương“Bất tri tam bách dư niên hậu,Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”[Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,Thiên hạ ai khóc Tố Như chăng?]“Độc Tiểu Thanh ký” – Nguyễn Du“Vũ trụ nội mạc phi phận sựÔng Hi Văn tài bộ đã vào lồng”“Bài ca ngất ngưởng” – Nguyễn Công TrứVăn học hiện đại: đề cao cái tôi cá nhân, đề cao cá tính sáng tạo của ngườiviết.-Nếu thơ ca trung đại gắn với hình ảnh con người phi ngã, con người trởthành phát ngôn của đạo lí, của tam cương ngũ thường, tàm tòng tứ đức thìcon người trong thơ mới đã mở ra một thế giới nội tâm vô cùng phong phúvới những cung bậc tình cảm, những khát vọng, những đắm say và có cảnhững buồn đau hạnh phúc.-Cái tôi tự do của Xuân Diệu như một “con ngựa trẻ không cương” cứ xôngvào cuộc đời với những niềm hưng phấn, xúc cảm mãnh liệt. Nhà thơ kêugọi tuổi trẻ phải sống mạnh mẽ, có bản lĩnh, hãy hưởng thụ cuộc sống trànđầy hương sắc thay vì giam mình trong cảnh sống im lìm, tẻ nhạt, đầy vôvị:“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắtCòn hơn buồn le lói suốt trăm nămEm vui đi răng nở ánh trăng rằmAnh hút nhụy của mỗi giờ tình tự”[Giục giã]-Cái tôi cá nhân tự do của Nguyễn Bính chính là sự rượt đuổi, kiếm tìmbằng một cốt cách đa tình, một đam mê không bờ bến trên hành trình kiếmtìm hạnh phúc:“Chiều nay … thương nhớ nhất chiều nayThoáng bóng em trong cốc rượu đầyTôi uống cả em và uống cảMột trời quan tái mấy cho say”[Một trời quan tái]-Cái tôi cá nhân của Thế Lữ là khao khát tự do, vẫy vùng giữa cảnh “núi nonhùng vĩ”, thoát khỏi cảnh tù hãm sa cơ như tâm sự con hổ trong vườn báchthú:“Có biết chăng trong những ngày ngao ngánTa đương theo giấc mộng ngàn to lớnĐể hồn ta được phảng phất gần ngươi- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”[Nhớ rừng]d. Tính quy phạm, sùng cổVăn học trung đại-Có tính quy phạm chặt chẽ:• Thể loại nào cũng tuân theo những luật lệ, quy định nghiêm ngặt từ đề tài,chủ đề, kết cấu, bố cục đến số câu, số chữ, cách ghép vần,…• Người viết phải thông qua một hệ thống ước lệ dày đặc, nghiêm ngặt đểphản ánh nội dung tác phẩm [dù phản ánh hiện thực hay bộc lộ tình cảm].Đây là điểm hạn chế khả năng phản ánh hiện thực của văn học song lại phùhợp với tâm lí nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ của người xưa.• Tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng đã tạo cho tác phẩm văn học trung đạitính hàm súc cao, ít lời, nhiều ý, đồng thời có vẻ đẹp riêng: trang nhã vàthâm thúy.-Sử dụng điển tích, điển cố• Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương trung đại, cácnhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mựccho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏamuôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệmcủa cổ nhân, của lịch sử xa xưa.• Văn học sử dụng nhiều điển tích, điển cố. Các nhà văn đời sau thường “tậpcổ” vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà vănđời trước mà không bị đanh giá là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giálà một cây bút đạo đức, sang trọng, tác phẩm của họ rất giàu giá trị.Văn học hiện đại: đề cao tự do, tôn trọng tự do sáng tác, không lệ cổ.2. Hệ thống đề tài, chủ đề, hình tượng trung tâmTrung đạiHiện đạiKhai thác đề tài quá khứ, lịch sử hoặc Lấy từ đời sống hiện thực đương đạilấy các điển tích, điển cố để bàn luậnVD. “Hịch tướng sĩ”, “Truyện Kiều”• “Ta thường tới bữa quên ăn, nửađêm vỗ gối, ruột đau như cắt,nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưathể xả thịt, lột da, ăn gan, uốngmáu quân thù; dẫu cho trăm thânta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thâyta bọc trong da ngựa, cũngnguyện xin làm.” Điển tích “nghìn thây tabọc trong da ngựa” lấy từcâu nói của viên tướngkhét tiếng Mã Viện đờiHán chép trong Hậu HánThư: “Đại trượng phudương tử ư cương trường,dĩ mã cách khỏa thi nhĩ”[bậc đại trượng phu nênchết ở giữa chiến trường,lấy da ngựa mà bọc thây],ý nói làm trai phải đánhĐông dẹp Bắc, xả thânnơi chiến trường vì nghĩalớn.Thường ảnh hưởng, vay mượn của vănhọc Trung QuốcNhân vật trung tâm là người anh hùng Nhân vật đa dạng, phong phú, là concứu quốc, liệt nữ, tráng sĩ, chinh phu người ở mọi giai cấp, tầng lớp trong xãchinh phụ, chủ yếu là tầng lớp trên.hội đương đại, ai cũng có thể trở thànhnhân vật trung tâm3. Hệ thống thể loạiTrung đạiTính nguyên hợp rõ nétHiện đạiChỉ những thể loại thuần túy văn họcmới gọi là văn chương.-Một số thể loại có tính chức năng-Thơ trữ tìnhrõ nét nhưng vẫn được coi là văn• Thơ ca gắn liền với tên tuổi củahọc như cáo, tấu, sớ, biểu, chiếu,Tản Đà, ông là người đầu tiênchỉphá vỡ cách viết chịu ảnh hưởng-Văn tế, hịchcủa lối Đường luật.-Văn – sử – triết bất phân-Thơ, phú, văn [truyện lí chữHán, truyện thơ Nôm]• Thời kì Thơ mới là đỉnh cao củasự phát triển thơ Việt Nam.• Một số nhà thơ tiêu biểu tronggiai đoạn Thơ mới là Xuân Diệu,Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, HuyCận, Nguyễn Bính,…-Tự sự hư cấu [tiểu thuyết, truyệnngắn, kí]• Người đầu tiên có công trongviệc hiện đại hóa tiểu thuyết làHồ Biểu Chánh. Ngoài ra, còn cónhiều tiểu thuyết gia tiêu biểutrong thời kì này như NguyễnChánh Sắc, Nhất Linh – KháiHưng – Hoàng Đạo [ba tác giảtrong nhóm Tự lực văn đoàn].• Những cây bút xuất sắc nhưNguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn,Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam,Nam Cao, Nguyễn Tuân, TôHoài… đã nâng truyện ngắn lênmột tầm cao mới.-Kịch bản văn học-Hiện đạiChữ Quốc ngữ dần trở thành4. Ngôn ngữ-Trung đạiVăn học chữ Hán phát triển songsong với văn học chữ Nôm.phương án duy nhất ghi âm ngônVăn học chữ Nôm nói về nhữngngữ dân tộc theo kí hiệu Latinhvấn đề phi chính thống chốnvà dần trở thành ngôn ngữ duyquan trường, nói lên tâm tư, tìnhnhất trong sáng tác văn học.cảm của đại đa số quần chúng.-Ngôn ngữ trong các tác phẩmvăn học hiện đại ngày càng trởnên uyển chuyển, phong phú,gần gũi với ngôn ngữ hàng ngàyhơn.5. Sự du nhập của các phương pháp sáng tác phương Tây vào văn học ViệtNam-Chủ nghĩa lãng mạn• Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn với tư các là 1 trào lưu văn học xuất hiệnnhững năm 30 của thế kỉ XX. Tiêu biểu cho trào lưu này là văn xuôi của Tựlực văn đoàn và thơ ca của phong trào Thơ Mới.• Chủ nghĩa lãng mạn đã tạo được một giai đoạn thơ ca giàu hương sắc vớinhiều phong cách và cá tính sáng tạo phong phú.• Văn chương lãng mạn đậm nét cái tôi cá nhân, khẳng định cái tôi một cáchtích cực, xem cái tôi là chủ thể sáng tạo được khai thác không hề vơi.-Chủ nghĩa hiện thực-Chủ nghĩa tượng trưng-Chủ nghĩa tự nhiên

Video liên quan

Chủ Đề