Sắp xếp theo thứ tự từ lớn đền nhỏ về diện tích các lục địa trên trái đất

(Last Updated On: 27/12/2021)

Trong số 510,2 triệu km2 của bề mặt Trái Đất, biển chiếm 361,1 triệu km 2 (70,8%), đất nổi chiếm 149,1 triệu km2 (29,2%). Lục địa tập trung chủ yếu ở Bắc bán cầu, chiếm 39% toàn bộ diện tích bán cầu đó. ở Nam bán cầu chủ yếu do đại dương bao phủ, phần đất liền chỉ chiếm 19% diện tích chung nên khí hậu điều hòa hơn.

1. Đại dương thế giới

1.1. Các đại dương trên thế giới

Toàn bộ bề mặt đại dương trên địa cầu có tên là Đại dương thế giới. Đại dương thế giới gồm 4 bộ phận chính: Bắc Băng Dương (13,10 triệu km 2), Đại Tây Dương (93,10 triệu km2), Ấn Độ Dương (74,62 triệu km 2) và Thái Bình Dương (179,68 triệu km 2). Giới hạn tự nhiên giữa các đai dương là bờ của các lục địa hay đảo mà đại dương bao bọc, còn giới hạn quy ước là vòng Bắc cực và các kinh tuyến chạy qua các mũi Nam đảo Taxmani, mũi Kim – cực Nam châu Phi và mũi Horn cực Nam của Nam Mỹ.

1.2. Các hợp phần của đại dương

a/ Biển, Vịnh, Vũng: Những bộ phận ở rìa các đại dương có kích thước lớn, ít hay nhiều tách biệt với đại dương gọi là biển, những bộ phận tương tự như thế của biển gọi là vịnh, nhỏ hơn gọi là vụng. Theo mức độ tách biệt với đại dương, các biển có thể được phân thành các loại sau:

– Biển kín là các biển hầu như được lục địa bao bọc bốn phía, chỉ thông với đại dương hay các biển khác qua eo biển (Địa Trung Hải, Hồng Hải, Hắc Hải,-Ban Tích v.v…).

– Biển nửa kín bị lục địa bao bọc một phần, còn các phần khác bị các bán đảo hay các dãy đảo phân cách với đại dương hay với biển lân cận Bêrinh, Okhôt, Bắc Hải, Nhật Bản v.v…).

– Biển giữa các đảo là bộ phận của đại dương bị các vòng cung đảo bao bọc xung quanh (biển Giava, Xulu v.v…).

– Biển mỏ nằm ở rìa lục địa và mỏ rộng tới đại dương (biển Arabi, Baren, Nam Hải v.v…).

b/ Địa hình đáy đại dương: Theo độ sâu và đặc điểm hình thái, cấu trúc, địa hình đáy đại dương thế giới được phân ra các khu vực sau:

– Vùng bờ biển là dải đất nằm giới hạn giữa biển và lục địa, dưới ảnh hưởng của thủy triều khi thì ngập nước, khi thì khô cạn.

– Thềm lục địa là dải rìa lục địa kéo dài dưới nước tối độ sâu 200m (có khi đến 5.000 – 6.000m). Thềm lục địa hầu như nằm ngang, nhưng trên bề mặt của nó vẫn có miền đồi, miền trũng, thung lũng ngầm v.v… Điều đó chứng tỏ thềm lục địa đã từng là lục địa, sau đó mới bị nước biển tràn ngập.

– Sườn lục địa bao chiếm miền có độ sâu từ 200 – 2.500m vói độ dốc phổ biến không vượt quá 4 – 7°, nhưng cá biệt có những khu vực độ dốc đạt tối 40 – 50°. Bề mặt của sườn lục địa có khi bị các thung lũng ngầm chia cắt. Có những thung lũng là sự tiếp tục kéo dài của một số thung lũng lớn trên đất liền qua thềm lục địa như Công Gô, Amazon…

– Đáy đại dương thế giới có độ sâu từ 2.500 – 6.000m. Địa hình ở đây cũng giống như trên đất nổi, có những bình nguyên, sơn nguyên và những dãy núi chia cắt đáy đại dương thành hệ thông những bồn địa.

– Vực thẳm đại dương là những vùng của đáy đại dương có độ sâu lớn hơn 6.000m. Các vực sâu nhất là Marian (10.863m); Philipin (10.540m), Kurin – Kamchatca (10.382m) và Nhật Bản (10.375m).

Phân tích bản đồ độ sâu của Đại dương thế giới cho thấy mặc dù bề mặt đáy của chúng khá phức tạp, nhưng cũng có thể rút ra một số đặc điểm chính sau:

– Phần trung tâm của đáy các đại dương đều nâng cao lên tạo thành các dãy núi ngầm. Thí dụ như ở giữa Bắc Băng Dương có dãy núi ngầm Lomonoxov, ở giữa Đại Tây Dương có dãy Đại Tây Dương, ở giữa Ân Độ Dương có dãy Ấn Độ Dương và ở giữa Thái Bình Dương có dãy Haoai. Chúng có tên gọi là các dải núi trung tâm đại dương.

– Những nơi sâu nhất của các đại dương không nằm ở trung tâm của chúng, mà ở rìa (vực Atacama) hoặc tiếp cận với các dãy đảo (vực Giava, Kurin, Kamchatca, Philipin…).

2. Lục địa và đảo

2.1. Lục địa

Lục địa là những phần đất nổi lớn trên mặt các đại dường, chiếm 139 triệu km 2. Phần đất liền của thế giới gồm có 6 lục địa: Âu, Á, Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, úc và Nam cực. Nói chung lục địa không tính các đảo, còn các châu có tính các đảo. Các châu trên thế giói bao gồm: châu Âu cỏ diên tích là 10.523 triệu km 2, châu Á : 43.475 triệu km 2, châu Phi: 30.152 triệu km 2, châu Mỹ: 24.228 triệu km2, châu Úc và Đại dương: 8.6 triệu km2 và châu Nam cực: 14.107 triệu km

Lục địa Úc và Nam cực nằm giữa đại dương nên có biên giới rõ ràng. Biên giới giữa lục địa Âu – Á và Phi được vạch rạ theo quy ước qua kênh đào Xuyê, giữa lục địa Bắc và Nam Mỹ qua kênh đào Panama. Còn biên giới giữa châu Âu và châu Á là vấn đề được tranh luận nhiều nhất, cả hai châu này về thực chất tạo nên một lục địa duy nhất (lục địa Âu – Á). Hiện nay biên giới hai châu Âu, Á được thống nhất lấy qua sườn Đông dãy Uran, Sông Embơ, bờ Bắc biển Caxpi, miền trũng Cumomanưchơ đến Hắc Hải.

2.2. Các dải núi lớn trên các lục địa

Xem xét địa hình bề mặt đất liền ta thấy nổi bật lên hai dải núi chính:

a/ Dải Thái Bình Dương kéo dài theo hưống kinh tuyến dọc rìa phía Đông của Thái Bình Dương, từ quần đảo Alêuxiuen, qua Laoeđic, Ăngđơ và Nam cực.

b/ Dải núi Âu – Á có xu thế chạy theo hướng vĩ tuyến từ Pyrênê, qua Anpơ, Cacpat, Apenin, Ban Căng, qua các núi Anatôni, Kapkazơ, các núi Pamia, Hymalaya, các mạch núi Đông Dương và Inđônêxia.

Trên bề mặt Trái Đất còn có dải núi cao đáng lưu ý chạy dài theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, từ Thiên Sơn, Antai đến Đông Bắc Xibêri.

Nghiên cứu bề mặt địa hình đất nổi nhận thấy hầu như mỗi lục địa đều chia thành ba vòng đai: vòng đai thấp và hai vòng đai cao. Vòng đai thấp thường nằm giữa hai vòng đai đất cao được biểu hiện rõ ở Bắc và Nam Mỹ. Phía Tây của các lục địa này có mạch núi Coócđie và Anđơ, ở rìa phía Đông có những núi thấp hơn, còn giữa lục địa là dải bình nguyên chạy từ Plata đến khu vực vịnh Hut – Xơn.

2.3. Đảo

Đảo là những phần đất nổi có kích thước khác nhau có biển và đại dương bao bọc xung quanh. Tất cả các đảo chiếm diện tích khoảng gần 10 triệu km2. Theo đặc điểm hình thành, các đảo được chia ra hai nhóm: đảo lục địa và đảo đại dương.

a/ Các đảo lục địa là các bộ phận của lục địa bị tách ra do sự xâm nhập của biển khi các bộ phận khác hạ thấp xuống do ảnh hưởng của các quá trình bên trong (đảo Mađagaxca, Xrilanca Corse, Ireland v…).

b/ Các đảo đại dương có nguồn gốc hình thành hoàn toàn không phụ thuộc vào lục địa. Các đảo thuộc nhóm này bao gồm đảo san hô và đảo núi lửa.

3. Những đặc điểm cơ bản cấu tạo của bề mặt Trái Đất

Bề mặt Trái Đất có những đặc điểm cấu tạo cơ bản sau:

1/ Diện tích của các khối lục địa ở Bắc bán cầu lốn hơn ở Nam bán cầu.

2/ Tất cả các lục địa, trừ Nam cực đều hợp thành từng cặp: Bắc Mỹ – Nam Mỹ, châu Âu – châu Phi, châu Á – châu úc. Từng cặp tạo thành tia lục địa. Các tia lục địa chụm lại ở khoảng không gian Bắc cực, tạo ra “sao lục địa”, ở mỗi tia, lục địa Bắc phân cách so với lục địa Nam do một đới dập vỡ của vỏ Trái Đất. Tại đây tồn tại những hói biển sâu cùng vô số đảo. Đây chính là khu vực hoạt động mạnh mẽ của núi lửa và động đất. Vòng đai đứt gẫy lớn chạy qua biển Caribê và vịnh Mêhicô, dọc theo Địa Trung Hải, các biển và quần đảo Á – úc.

3/ Tất cả các lục địa đều có hình tam giác, đáy mỏ rộng về phía Bắc.

4/ Các lục địa Nam đều lõm về phía Tây (Vịnh Arica ở Nam Mỹ, vịnh Ghinê ở châu Phi và vịnh Úc lớn ở châu Úc) và lồi về phía Đông.

5/ Một vài lục địa tồn tại chuỗi đảo chạy dọc theo rìa phía Đông, tạo thành những vòng cung đảo lõm về phía Đông (vòng cung Anti, Nam Anđơ, vòng cung Đông Á).

6/ ở các lục địa phía Nam của mỗi tia, lục địa hình như hơi dịch về phía Đông so với lục địa phía Bắc và không phải đoạn kéo dài trực tiếp theo kinh tuyến của lục địa Bắc.

7/ Bề mặt lục địa ỏ trung tâm thấp hơn ở rìa, trái lại ỏ các đại dương thì trung tâm cao hơn rìa. Như vậy toàn bộ thạch quyển nói chung gồm có những vòng đai địa hình cao và địa hình thấp liên tiếp chạy theo hướng kinh tuyến.

8/ Diện tích Bắc Băng Dương xấp xỉ bằng diện tích lục địa Nam cực.

Những quy luật làm phát sinh các đặc điểm nêu trên đang được các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu và giải thích.

MỞ ĐẦUCon người đang sống trên trái đất, sự hình thành và phát triển của trái đất tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của con người, việc ngiên cứu trái đất chính là ngiên cứu môi trường sống, không gian sống ở quá khứ, hiện tại và tương lai của chính chúng ta. Với mục đích đóvie65c tìm hiểu về lục đia, biển và đại dương là một phần không thể thiếu trong quá trình khám phá về hành tinh này.Những tư liệu sau đay sẽ giúp các bạn có một cái nhìn tổng quát về lục địa, biển và đại dương trên phương diện địa hình và cấu tạo. Thông tin được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau trong một khoang thời gian ngắn do đó có những hạn chế và thiếu sót, mong nhận được sự đóng góp, bổ sung và sửa chữa chân thành từ cô và các bạn.A.BIỂN VÀ CÁC ĐẠI DƯƠNG:• VỎ ĐẠI DƯƠNG :Lớp vỏ này nằm ở dưới đại dương, dày khoảng 6-11 km. Đá của vỏ đại dương thì rất trẻ so với vỏ lục địa.Đá của vỏ Trái Đất có độ tuổi không hơn 200 triệu năm. Vỏ dại dương được làm từ loại đá bazan không có Olivin. Bazan có màu tối, được tạo ra từ núi lửa. Nó được tạo thành từ dung nham lỏng làm lạnh nhanh. • ĐỊA HÌNH BIỂN VÀ ĐAI DƯƠNG:a.Địa hình thềm lục địa:Các vùng biển theo luật biển quốc tếThềm lục địa là vành đai mở rộng của mỗi lục địa, trong các thời kỳ băng hà đã là các vùng đất liền còn hiện nay là các biển tương đối nông (còn được biết đến như là các biển cạn) và các vịnh. Các thềm lục địa có độ dốc thoải đều (1-2 °) và thông thường kết thúc bằng các sườn rất dốc (gọi là đứt gãy thềm lục địa). Đáy biển phía dưới các đứt gãy là dốc lục địa có độ dốc cao hơn rất nhiều so với thềm lục địa. Tại chân dốc nó thoải đều, tạo ra bờ lục địa và cuối cùng hợp nhất với đáy đại dương tương đối phẳng, có độ sâu đạt từ 2.200 đến 5.500 m. Ranh giới ngoài của thềm lục địa có độ sâu đạt tối đa 200-600 m hoặc sâu hơn tùy theo cấu tạo địa chất sườn lục địa.Chiều rộng của thềm lục địa dao động một cách đáng kể. Có rất nhiều khu vực không có thềm lục địa, đặc biệt là ở các khu vực mà các gờ của vỏ đại dương nằm gần vỏ lục địa trong các khu vực sút giảm ven bờ, chẳng hạn như các vùng bờ biển của Chile hay bờ biển phía tây của đảo Sumatra. Thềm lục địa lớn nhất— thềm lục địa Siberi ở Bắc Băng Dương— kéo dài tới 1.500 kilômét. Biển Đông nằm trên một khu vực mở rộng khác của thềm lục địa, thềm lục địa Sunda, nó nối liền các đảo Borneo, Sumatra và Java với châu Á đại lục. Các biển khác cũng nằm trên các thềm lục địa còn có biển Bắc và vịnh Ba Tư (còn gọi là vịnh Péc xích). Chiều rộng trung bình của các thềm lục địa là khoảng 80 km. Độ sâu của các thềm lục địa cũng dao động mạnh. Nó có thể chỉ nông khoảng 30 m mà cũng có thể sâu tới 600 m.Thềm lục địa chia ra thềm nội (phần giáp đất liền), thềm giữa và thềm ngoài (giáp sườn lục địa). Ranh giới giữa chúng được phân định tùy theo từng vùng. Phần ngoài cùng của thềm là mép thềm (shelf-break).Theo nguồn gốc có thể chia thềm lục dịa ra ba kiểu:+Thềm lục địa nhận chìm: là các đồng bằng tích tụ-bào mòn và bào mòn-tích tụ nửa ngập nước tương ứng với đới rìa các miền lục địa bị ngập nước.+Thềm lục địa mài mòn của các công trình tạo núi trẻ, cung đảo và đảo đại dương.+Thềm lục địa tích tụ châu thổ.Các trầm tích được chuyên chở tới các vùng thềm lục địa do hiện tượng xói mòn từ các vùng đất liền. Kết hợp với độ chiếu sáng từ Mặt Trời tương đối cao đối với các vùng biển nông thì các loài thủy sinh vật tại khu vực thềm lục địa tương đối phong phú khi so sánh với các sa mạc sinh học của đáy đại dương. Cá tuyết (moruy) của khu vực Grand Banks phía ngoài Newfoundland đã nuôi những người châu Âu nghèo khó hơn 500 năm trước khi chúng bị đánh bắt cạn kiệt. Nếu các điều kiện yếm khí chiếm ưu thế trong các lớp trầm tích thì các thềm lục địa theo thang niên đại địa chất sẽ trở thành các nguồn nhiên liệu hóa thạch.Xa hơn nữa, việc tương đối dễ tiếp cận của các thềm lục địa là phương thức tốt nhất để tìm hiểu các bộ phận của đáy đại dương. b.Địa hình sườn lục địa:Sườn lục địa là phần dốc của thềm lục địa chuyến tiếp ra trũng đại dương , đây cũng là đới ngoài của vỏ lục địa chuyển sang vỏ đại dương . Sườn lục địa có độ dốc và độ sâu lớn là do 2 hệ thống đứt gãy kiến tạo : đứt gãy tạo bờ dốc sụt bậc , đứt gãy ngang tạo nên các rãnh sâu gọi là Canhon . Vì vậy , địa hình sườn lục địa còn giữ lại dấu ấn của quá trình địa chất nội sinh là chủ yếu .Theo độ sâu người ta chia ra biển khơi (sâu trên 3000 m), biển thẳm (3000-6000 m) và biển vực sâu (hơn 6000 m). Ngoài ra còn có những tên gọi khác như lòng chảo đại dương hay rốn đai dương là những vùng nước sâu trên 3000 m, có bề mặt khá phẳng; còn vùng trũng nước sâu là vùng có độ sâu trên 6000 m.Sườn và chân lục địa có địa hình lởm chởm phức tạp với nhiều ngọn núi, đồng bằng dưới nước và có những ngọn núi cao 2000-3000 m đứng riêng lẻ(seamounts).c.Địa hình chân lục địa:Chân lục địa là một dải tương đối hẹp có dạng nón quạt ngầm không liên tục nằm ở chân dốc sườn lục địa. Chân lục địa thường là những thể turbidit-sản phẩm hỗn hợp của dòng chảy theo thung lũng canhon từ sườn lục địa đổ vào lòng chảo đại dương trộn lẫn bùn sét, bùn vôi, bùn silic và vật liệu núi lửa được tái phân bố do dòng rối của đáy biển sâu.d.Trũng đại dương:Địa hình các trũng đại dương phần lớn được xác định bởi bản chất các rìa lục địa liên quan với chúng.Chẳng hạn như chân của sườn lục địa rìa thụ động thường gắn liền với vùng đồng bằng biển thẳm. Trên bề mặt của chúng nhô lên một số ngọn núi đơn lẻ dưới nước và gặp ít thung lũng nông thuộc phần kéo dài các hẻm sâu từ sườn lụa địa.Trong khi đó đáy đại dương rìa tích cực thường bị băm nát bởi các đứt gãy. Ở đây ngoài các núi cao trên 1000 m còn có vô số các đồi núi biển thẳm cao vài trăm m. Các đồi núi này ở rìa lụa địa thụ động (yên tĩnh) cũng khá nhiều song bị chôn vùi dưới lớp trầm tích dày và chỉ thấy trên mặt cắt địa chấn.e.Địa hình các sống núi trung tâm đại dương:Các sống núi trung tâm đại dương là những sốnng núi kì vĩ nằm giữa các đại dương, chiếm 1/3 diện tích đại dương thế giới. Trên các sống núi nằm ở sâu khoảng 5000 m, đỉnh núi thường đạt độ cao 2500 m, đôi khi nhô lên khỏi mặt biển. Chiều rộng chân núi đạt từ 1000-3000 km. Đây là đới “động” bởi hoạt động địa chấn tăng cao và hoạt động núi lửa mạnh. Các sống núi này léo dài qua tất cả các đại dương và đạt trên 70000 km.Các sống núi bị chia cắt bởi rất nhiều đứt gãy chuyển dạng (đứt gãy ngang) làm cho các khối bị xê dịch tương đối với nhau. Các trục đối xứng của sống núi (đường sống lưng hay đỉnh núi) thường trùng với thung lũng trung tâm với chiều rộng tương đối hẹp (gần 30 km) và cắt sâu xuống (đến 2 km).f.Các dạng khác của địa hình đáy đại dương:+Núi dưới nước: thường là các núi lửa cổ phân bố rời rạc trên đáy biển và đại dương.+Các sống núi địa chấn ổn định: chúng là các khối nhô kéo dài khà yên tĩnh về mặt địa chấn. Nguồn gốc các dãy núi ngầm này cũng do các hoạt động núi lửa dưới biển.+Các đảo và quần đảo núi lửa: trên đó phát triển san hô atol.g.Địa hình đáy biển:Biển là các thủy vực nằm giữa đại lục hoặc ằnm sát các đại lục và liên thông với đại dương qua các đảo và quần đảo.Theo địa mạo và độ sâu, biển được chia làm hai loại: laoi5 đáy bằng phẳng và loại máng sâu hay biển nông và biển sâu. Biển nông thường có đáy phẳng đặc trưng cho miền nền hay gọi là biển á lục địa. Còn biển máng có đáy khá sâu và địa hình đáy phân cắt đặc trưng cho địa máng hay đới hút chìm, tuy nhiên cũng có ngoại lệ.Theo mối tương quan với lục địa (đất liền) chia ra biển nội lục (giữa lục địa) và biển ven đại dương.Địa hình đáy biển có thể chia ra các yếu tố như đáy đại dương thềm lục địa, sườn lục địa; ở một số biển có đới chân lục địa, thậm chí có đồng bằng biển thẳm và sống trung tâm với thung lũng rift.Phần lớn các biển có độ sâu không lớn và có cấu tạo bề mặt khá phức tạp.Nghiên cứu địa hình đáy biển và đại dương có tầm quan trọng về nhiều mặt.Đặc điểm địa hình có ảnh hưởng đến sự di chuyển của nước và phát triển thế giới sinh vật. Vị trí tương đối của biển với lục địa, mức độ liên thông của nó với đại dương sẽ xác định độ muối của chúng, khối lượng vật liệu trầm tích vụn do sông mang tới, cũng như tính chất hoàn lưu của nước và sự phát triển của thế giới sinh vật.• HÌNH THÀNH ĐẠI DƯƠNG CỔ:Trôi dạt lục địa đã tái định hình thể cho các đại dương của Trái Đất, kết hợp và chia cắt các đại dương cổ để tạo ra các đại dương như hiện nay. Các đại dương cổ có:Đại dương sông Bridge, đại dương nằm giữa quần đảo Insular cổ đại và Bắc Mỹ.Đại dương Iapetus, đại dương ở Nam bán cầu nằm giữa Baltica và Avalonia.Panthalassa, đại dương toàn cầu rộng lớn mênh mông, bao quanh siêu lục địa Pangaea.Đại dương RheicĐại dương núi Slide, đại dương nằm giữa quần đảo Intermontane cổ đại và Bắc Mỹ.Đại dương Tethys, đại dương nằm giữa các lục địa cổ Gondwana và Laurasia.Đại dương Khanty, đại dương nằm giữa Baltica và Siberia.Mirovia, đại dương bao quanh siêu lục địa Rodinia.Đại dương Paleo-Tethys, đại dương nằm giữa Gondwana và địa hình Hunic.Đại dương Proto-Tethys,Đại dương Pan-Africa, đại dương bao quanh siêu lục địa Pannotia.Superocean, đại dương bao quanh siêu lục địa toàn cầu.Đại dương Ural, đại dương nằm giữa Siberia và Baltica. • Đại dương: Bản đồ động chỉ ra các vùng nước đại dương của thế giới. Một khối nước liên tục bao quanh Trái Đất, Đại dương thế giới (toàn cầu) được chia thành một số các khu vực cơ bản. Sự phân chia thành 5 đại dương là điều thường được công nhận: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Năm đại dương của Trái Đất• Ấn Độ Dương • Bắc Băng Dương • Đại Tây Dương • Nam Đại Dương • Thái Bình Dương Bắc Băng Dương và Nam Đại Dương; hai đại dương cuối đôi khi được hợp nhất trong ba đại dương đầu tiên.SỰ HÌNH THÀNH ĐAI DƯƠNG: Nước trên trái đất có nguồn gốc đầu tiên từ sự phun trào các chất khí và hơi nước của các núi lửa, tạo nên bầu khí quyển đầu tiên trên trái đất. Sau đó, hơi nước ngưng tụ lại và trút xuống lấp đầy các chỗ trũng trên bề mặt trái đất.Từ các vùng nước rộng lớn này, các đại dương thế giới được hình thành. Lúc đầu nước biển còn nóng, sau đó nguội dần và những thực vật đầu tiên đã hình thành, làm giàu oxi trong nước, tạo điều kiện cho sự sống phát triển trên trái đất. Nước biển cũng mặn dần do sông ngòi hòa tan muối từ đất đá trong đất liền đem ra biển hoặc từ các núi lửa ngầm phun ra.Vậy Đại dương là một vùng lớn chứa nước mặn tạo thành thành phần cơ bản của thủy quyển. Khoảng 71% diện tích bề mặt Trái Đất (khoảng 361 triệu kilômét vuông) được các đại dương che phủ, một khối nước liên tục theo tập quán được chia thành một vài đại dương chủ chốt và một số các biển nhỏ. Trên một nửa diện tích khu vực này có độ sâu trên 3.000 mét (9.800 ft). Độ mặn trung bình của đại dương là khoảng 35 phần ngàn (ppt) (3,5%) và gần như mọi loại nước biển có độ mặn dao động trong khoảng từ 30 (ở vùng cận cực) tới 38 ppt (vùng nhiệt đới/cận nhiệt đới). Nhiệt độ nước bề mặt ở ngoài khơi là 29°C (84°F) ở vùng ven xích đạo xuống đến 0°C (32°F) ở các vùng địa cực.a. TỔNG QUAN:Mặc dù nói chung được công nhận như là các đại dương 'tách biệt', nhưng các vùng nước mặn này tạo thành một khối nước nối liền với nhau trên toàn cầu, thường được gọi chung là Đại dương thế giới hay đại dương toàn cầu Khái niệm về đại dương toàn cầu như là một khối nước liên tục với sự trao đổi tương đối tự do giữa các bộ phận của nó có tầm quan trọng nền tảng cho hải dương học. Các phần đại dương chính được định nghĩa một phần dựa vào các châu lục, các quần đảo khác nhau cùng các tiêu chí khác: các phần này là (theo trật tự giảm dần của diện tích) Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương (đôi khi được phân chia và tạo thành phần phía nam của Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương) và Bắc Băng Dương (đôi khi được coi là một biển của Đại Tây Dương[4]). Thái Bình Dương và Đại Tây Dương cũng có thể phân chia tiếp bởi đường xích đạo thành các phần Bắc và Nam. Các khu vực nhỏ hơn của đại dương được gọi là các biển, vịnh hay một số các tên gọi khác. Cũng tồn tại một số khối nước mặn nhỏ hơn trong đất liền và không nối với Đại dương thế giới, như biển Aral, Great Salt Lake (Hồ Muối Lớn) – mặc dù chúng có thể coi như là các 'biển', nhưng thực ra chúng là các hồ nước mặn. Có 5 đại dương trên thế giới, trong đó Thái Bình Dương là lớn nhất và sâu nhất, thứ hai về diện tích và độ sâu là Đại Tây Dương, tiếp theo là Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương còn nhỏ và nông nhất là Bắc Băng Dương.Nước đại dương luôn luôn chuyển động do tác động của thuỷ triều, gây ra bởi lực hấp dẫn của Mặt Trăng và Mặt Trời đối với Trái Đất, sóng và hải lưu do tác dụng của gió. Các dòng bù trừ phát sinh do sự thiếu hụt của nước. Chẳng hạn nước của Địa Trung Hải bị bốc hơi rất mạnh, ít sông suối đổ vào, do đó nước có độ mặn cao và có tỉ trọng lớn. Nước ở dưới sâu chảy từ Địa Trung Hải ra Đại Tây Dương tạo ra sự thiếu hụt, vì thế một hải lưu bề mặt lại chảy từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải để bù vào chỗ thiếu hụt đó.Do độ che phủ bề mặt Trái Đất tới 71% nên các đại dương có ảnh hưởng lớn tới sinh quyển. Sự bốc hơi nước của các đại dương quyết định phần lớn lượng giáng thủy mà Trái Đất nhận được, nhiệt độ nước của các đại dương cũng quyết định phần lớn khí hậu và kiểu gió trên Trái Đất. Sự sống trong lòng đại dương có lịch sử tiến hóa diễn ra khoảng 3 tỷ năm trước khi có sự di chuyển của động, thực vật lên trên đất liền. Lượng sự sống và khoảng cách tính từ bờ biển (yếu tố vô sinh) ảnh hưởng tới sự phân bố chính của quần xã sinh vật biển. Các sinh vật như tảo, rong, rêu sinh sống trong khu vực giáp giới thủy triều (nơi đất liền gặp biển) sẽ cố định chúng vào đá vì thế chúng không bị rửa trôi bởi thủy triều. Đại dương cũng là nơi sinh sống của nhiều loài và có thể phân chia thành vài đới (vùng, tầng) như vùng biển khơi, vùng đáy, vùng chiếu sáng, vùng thiếu sáng v.v.[6]Về mặt địa chất, đại dương là nơi mà lớp vỏ đại dương được nước che phủ. Lớp vỏ đại dương dày trung bình khoảng 4,5 km, bao gồm một lớp trầm tích mỏng che phủ trên lớp bazan núi lửa mỏng đã đông cứng. Lớp bazan này che phủ lớp peridotit thuộc mặt ngoài của lớp phủ Trái Đất tại những nơi không có châu lục nào. Xét theo quan điểm này thì ngày nay có 3 “đại dương”: Đại dương thế giới, biển Caspi và biển Đen, trong đó 2 “đại dương” sau được hình thành do va chạm của mảng Cimmeria với Laurasia. Địa Trung Hải có thể coi là một “đại dương” gần như riêng biệt, nối thông với Đại dương thế giới qua eo biển Gibraltar và trên thực tế đã vài lần trong vài triệu năm trước chuyển động của châu Phi đã đóng kín eo biển này hoàn toàn. Biển Đen thông với Địa Trung Hải qua Bosporus, nhưng là do tác động của một kênh tự nhiên cắt qua lớp đá lục địa vào khoảng 7.000 năm trước, chứ không phải một mảng của đáy biển như eo biển Gibraltar.b. TÍNH CHẤT VẬT LÝ : Diện tích của Đại dương thế giới là khoảng 361 triệu kilômét vuông (139 triệu dặm vuông), dung tích của nó khoảng 1,3 tỷ kilômét khối (310 triệu dặm khối), và độ sâu trung bình khoảng 3.790 mét (12.430 ft).Gần một nửa nước của đại dương thế giới nằm sâu dưới 3.000 m (9.800 ft). Sự mở rộng khổng lồ của đại dương sâu (những gì dưới độ sâu 200m) che phủ khoảng 66% bề mặt Trái Đất. Nó không bao gồm các biển không nối với Đại dương thế giới, chẳng hạn như biển Caspi.Tổng khối lượng của thủy quyển khoảng 1,4 × 1021 kilôgam, chiếm khoảng 0,023% khối lượng Trái Đất. Dưới 2% là nước ngọt; phần còn lại là nước mặn, chủ yếu trong các đại dương.c. MÀU SẮC:Một sai lầm phổ biến cho rằng nước biển có màu xanh lam chủ yếu là do bầu trời có màu xanh lam. Trên thực tế, nước có màu xanh lam rất nhạt chỉ khi được nhìn thấy với một thể tích lớn. Trong khi sự phản chiếu bầu trời có đóng góp vào biểu hiện màu xanh lam của bề mặt đại dương, nhưng nó không phải là nguyên nhân chính. Nguyên nhân chủ yếu là sự hấp thụ của các hạt nhân các phân tử nước đối với các photon màu đỏ từ ánh sáng chiếu tới, ví dụ đã biết duy nhất về màu sắc trong tự nhiên tạo ra từ động lực học dao động chứ không phải động lực học điện tử.Nhiều thủy thủ và các nhà hàng hải chuyên nghiệp thông báo rằng đại dương thường bức xạ ánh sáng nhìn thấy hay phát quang, có thể trải dài hàng dặm vào ban đêm. Năm 2005, các nhà khoa học đã thông báo điều này lần đầu tiên, chứng cứ bằng hình ảnh cũng đã thu được đối với sự phát sáng này. Nó có thể là do phát quang sinh học.d. THÁM HIỂM:Bản đồ các đặc trưng chính dưới đáy biển. (1995, NOAA)Đi lại trên bề mặt đại dương bằng tàu thuyền đã diễn ra từ thời tiền sử, nhưng chỉ ngày nay thì việc đi lại ngầm dưới mặt nước biển một cách rộng khắp mới có thể trở thành hiện thực.Điểm sâu nhất trong đại dương nằm ở phía nam rãnh Mariana trong Thái Bình Dương, gần quần đảo Bắc Mariana. Nó có độ sâu tối đa là 10.923 m (35.838 ft). Nó được khảo sát chi tiết lần đầu tiên năm 1951 bởi tàu "Challenger II" của hải quân Anh và điểm sâu nhất này được đặt tên theo tên tàu này là "Challenger Deep". Năm 1960, tàu thăm dò biển sâu Trieste đã xuống thành công tới đáy của rãnh, được điều khiển bởi một thủy thủ đoàn gồm 2 người.Phần lớn đáy các đại dương vẫn chưa được thám hiểm và lập bản đồ. Hình ảnh toàn cầu của nhiều đặc trưng ngầm lớn hơn 10 km (6 dặm) được tạo ra năm 1995 dựa trên các méo mó hấp dẫn của bề mặt biển cận kề.e. CÁC KHU VỰC TẦNG:Các bộ phận chính của đại dươngĐại dương được chia ra thành nhiều khu vực hay tầng, phụ thuộc vào các điều kiện vật lý và sinh học của các khu vực này. Vùng biển khơi bao gồm mọi khu vực chứa nước của biển cả (không bao gồm phần đáy biển) và nó có thể phân chia tiếp thành các khu vực con theo độ sâu và độ chiếu ở độ sâu 4.000 – 6.000 m. Cuối cùng là vùng đáy tăm tối tương ứng với vùng sáng. Vùng chiếu sáng che phủ đại dương từ bề mặt tới độ sâu 200 m. Đây là khu vực trong đó sự quang hợp diễn ra phổ biến nhất và vì thế chứa sự đa dạng sinh học lớn nhất trong lòng đại dương. Do thực vật chỉ có thể sinh tồn với quá trình quang hợp nên bất kỳ sự sống nào tìm thấy dưới độ sâu này hoặc phải dựa trên các vật chất trôi nổi chìm xuống từ phía trên (xem tuyết biển) hoặc tìm các nguồn chủ lực khác; điều này thường xuất hiện dưới dạng miệng phun thủy nhiệt trong khu vực gọi là vùng thiếu sáng (tất cả các độ sâu nằm dưới mức 200 m). Phần biển khơi của vùng chiếu sáng được gọi là vùng biển khơi mặt (epipelagic). Phần biển khơi của vùng thiếu sáng có thể chia tiếp thành các vùng nối tiếp nhau theo chiều thẳng đứng. Vùng biển khơi trung (mesopelagic) là tầng trên cùng, với ranh giới thấp nhất tại lớp dị nhiệt là 12°C, trong đó tại khu vực nhiệt đới nói chung nó nằm ở độ sâu giữa 700 với 1.000 m. Dưới tầng này là vùng biển khơi sâu (bathypelagic) nằm giữa 10°C và 4°C, hay độ sâu giữa khoảng 700-1.000 m với 2.000-4.000 m. Nằm dọc theo phần trên của vùng bình nguyên sâu thẳm là vùng biển khơi sâu thẳm (abyssalpelagic) với ranh giới dưới của nó nằm ở độ sâu khoảng 6.000 m. Vùng cuối cùng nằm tại các rãnh đại dương và được gọi chung là vùng biển khơi tăm tối (hadalpelagic). Nó nằm giữa độ sâu từ 6.000 m tới 10.000 m và là vùng sâu nhất của đại dương.Cùng với các vùng biển khơi thiếu sáng còn có các vùng đáy thiếu sáng, chúng tương ứng với ba vùng biển khơi sâu nhất. Vùng đáy sâu che phủ sườn dốc lục địa và kéo dài xuống độ sâu khoảng 4.000 m. Vùng đáy sâu thẳm che phủ các bình nguyên sâu thẳm biển khơi tăm tối, tìm thấy ở các rãnh đại dương. Vùng biển khơi cũng có thể chia ra thành hai vùng con, là vùng ven bờ (neritic) và vùng đại dương. Vùng neritic bao gồm khối nước nằm ngay trên các thềm lục địa, trong khi vùng đại dương bao gồm toàn bộ vùng nước biển cả còn lại.Ngược lại, vùng duyên hải bao phủ khu vực nằm giữa các mức thủy triều cao và thấp nhất, nó là khu vực chuyển tiếp giữa các điều kiện đại dương và đất liền. Nó cũng có thể gọi là vùng liên thủy triều do nó là khu vực trong đó mức thủy triều có ảnh hưởng mạnh tới các điều kiện của khu vực.f. ĐÁY ĐẠI DƯƠNGĐừng rơi khỏi thềm lục địa! Thềm chấm dứt đột ngột cách bờ biển ở một khoảng xa nào đó. Và rồi đất tụt xuống dốc lục địa ở đáy Đại Dương sâu vào khoảng 3600m bên dưới. bạn có thể nhận chìm 2 đỉnh Nevis?s vào đáy Đại Dương mà vẫn cách mặt đất 1000m. Đáy đại dương không tối hoàn toàn. Rất ít loài cá nào có thể sống được ở đó. Loài cá câu đèn là một loại cá sống được ở đó. Nó mang đèn lồng của chính nó để nhử con mồi vào cái miệng khổng lồ. ánh sáng do vi khuẩn tạo ra sáng rực trong bóng đêm. Biển Địa Trung Hải đang khép lại nhưng rất chậm. Mỗi năm Bắc Phi di động 1 cm hoặc 2 cm gần hơn với ý Hy lạp và Pháp.Biển mặn nhất là ở Trung Đông nơi mặt trời nóng như đổ lửa làm bốc hơi nước và làm cho biển ngày càng mặn hơn. Biển Đỏ mặn đến nỗi bạn không bị chìm ngỉm - muối đẩy bạn nổi lên!Sóng là do gió thổi trên biển gây ra. Sóng có thể di chuyển hàng ngàn cây số chứng tỏ trên đường đi không có mô đất liền nào chặn chúng lại. Có những đợt sóng bắt nguồn từ ấn Độ Dương có thể băng qua 19.000 km thông luôn con đường tới Alaska.g.MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA NƯỚC BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG 1.Thành phần và tỉ trọng của nước biểnNước biển có chứa các chất muối, khí (ôxi, nitơ, cácbonic…) và chất hữu cơ có nguồn gốc động, thực vật.Trong nước biển, nhiều nhất là các muối khoáng; trung bình mỗi kilôgam nước biển có 35 gam muối khoáng, trong đó có 77,8% là muối natri clorua tức là muối ăn.- Tỉ lệ muối hay độ muối trung bình của nước biển là 35‰, nhưng độ muối cũng luôn thay đổi tuỳ thuộc vào tương quan giữa độ bốc hơi với lượng mưa và lượng nước sông từ các lục địa đổ ra biển như: Biển Đỏ có độ muối lên tới 43‰ trong khi biển Ban-tích có độ muối thấp nhất, có nơi chỉ còn 3,5‰.- Độ muối ở đại dương thay đổi theo vĩ độ:+ Dọc Xích đạo, độ muối là 34,5‰+ Vùng chí tuyến, độ muối lên tới 36,8‰…+ Gần hai cực, độ muối chỉ còn 34‰Nước biển có tỉ trọng lớn hơn nước ngọt. Độ muối càng cao thì tỉ trọng của nước biển càng lớn, tuy nhiên xuống tới một độ sâu nhất định thì độ muối ở mọi nơi đều đồng nhất, nên tỉ trọng cũng dần dần đồng nhất. 2. Nhiệt độ của nước biểna) Nhiệt độ nước biển giảm dần theo độ sâu Từ độ sâu hơn 3000m (ở bất kì vĩ độ nào) nhiệt độ nước biển cũng gần như không thay đổi (từ 0o đến +4oC). Sở dĩ như vậy là vì ở độ sâu này, nước biển ở mọi nơi đều là nước từ các địa cực, nhất là từ Nam Cực, lắng xuống và trôi đến.b) Nhiệt độ nước biển thay đổi tuỳ theo mùa trong năm Do chịu ảnh hưởng của nhiệt độ không khí nên nhiệt độ nước biển cũng thay đổi theo các mùa trong năm, mùa hạ nhiệt độ nước biển cao hơn mùa đông. c) Nhiệt độ nước biển giảm dần từ vĩ độ thấp lên vĩ độ cao (từ Xích đạo về cực) Nhiệt độ nước biển còn thay đổi do ảnh hưởng của các dòng biển.3. Thủy triềuThủy triều là hiện tượng dao động tuần hoàn của mực nước đại dương trong 1 ngày do sức hút tương hỗ của mặt trời , mặt trăng và trái đất . Chu kỳ triều được đặc trưng bằng thời gian triều lên , thời gian triều rút , biên độ và độ lớn của triều .4. Hải lưuTrên các đại dương thế giới xuất hiện các dòng hải lưu với quy mô hàng nghìn km . Các dòng hải lưu có tác dụng làm tăng sự trao đổi nước , phân bố lại nhiệt độ , độ muối , làm tăng tính đồng nhất về thành phần hóa học của nước biển , ảnh hưởng đến hoàn lưu khí quyển và khí hậu các vùng trên trái đất . Nguyên nhân hình thành các dòng hải lưu là do sự tác động của khí quyển , bức xạ mặt trời , các lực hút tạo thủy triều và lực coriolit . Nhìn chung các dòng hải lưu đều có mối quan hệ trực tiếp với lớp không khí sát mặt nước , đó chính là các hệ thống xoáy thuận và xoáy nghịch khổng lồ . •Vai trò của biển và đại dương đối với con ngườiBiển và đại dương là nguồn cung cấp hơi nước vô tận cho khí quyển. Hơi nước sinh ra mây và mưa để duy trì cuộc sống của các sinh vật. Đại dương giữ vai trò điều hoà khí hậu của Trái Đất, không có đại dương thì khí hậu trên Trái Đất sẽ rất khắc nghiệt.Biển và đại dương là kho tài nguyênTheo các số liệu thống kê gần đây, ở biển và đại dương có trên 160000 loài động vật và 10000 loài thực vật.Trong lòng đất dưới đáy biển và đại dương có đủ các loại khoáng sản như trên lục địa, nhiều loại có trữ lượng lớn hơn các mỏ trên lục địa nhiều lần. Người ta ước tính trữ lượng dầu mỏ ở biển và đại dương khoảng 21 tỉ tấn, khí tự nhiên khoảng 14 nghìn tỉ m3…Rất nhiều mỏ khoáng sản ở biển và đại dương đã được con người khai thác từ lâu như quặng sắt, lưu huỳnh, đồng, phốt pho…Ngoài ra, biển và đại dương còn là nguồn tài nguyên hoá học to lớn với trên 70 nguyên tố hoá học khác nhau.Thuỷ triều là nguồn năng lượng vô tận của nhiều quốc gia trên thế giới. Công suất lí thuyết của năng lượng thuỷ triều ước tính khoảng 1 tỉ kW. Nhà máy điện thuỷ triều đầu tiên được xây dựng ở cửa sông Răng-xơ (Pháp) vào năm 1967 với công suất thiết kế là 240000 kW.Sự chênh lệch nhiệt độ của nước biển trên bề mặt và dưới sâu cũng là nguồn thuỷ điện vô cùng to lớn. Ở vùng nhiệt đới, mức chênh lệch nhiệt độ của nước trên mặt và dưới sâu khoảng 10 – 15oC; dựa vào sự chênh lệch này người ta đã xây dựng những nhà máy thuỷ nhiệt. Nhà máy điện thuỷ nhiệt đầu tiên đang hoạt động ở gần A-bit-gian (Cốt Đi-voa) với công suất 14000 kW.- Biển và đại dương là “chiếc cầu nối liền giữa các lục địa với nhau”Biển và đại dương là đường giao thông vận tải hết sức rộng lớn. Hiện nay vận chuyển trên biển đóng vai trò hàng đầu trong buôn bán quốc tế. Vận tải đường biển chiếm hơn ¾ khối lượng hàng hoá trao đổi trên thế giới.- Biển và đại dương còn là nơi nghỉ ngơi, an dưỡng và du lịch hấp dẫn KẺ HUỶ DIỆT CÓ TÊN LÀ … ĐẠI DƯƠNG• Trái đất nóng lên vì metan dướiđáy biển(TBKTSG Online) - Các nhà khoa h cọ v a tìm ra m t “th ph m” góp ph nừ ộ ủ ạ ầ gia tăng hi u ng nhà kính, đó là sệ ứ ự tan khí mê-tan nguy h i g p 20 l nạ ấ ầ khí CO2. Nh ng phát hi n ban đ u cho th y cóữ ệ ầ ấ nh ng dòng mê-tan c c l n t đáy bi nữ ự ớ ừ ể B c c c đang s i b t lên b m t do B cắ ự ủ ọ ề ặ ắ c c tr nên m h n ch y c a l p băngự ở ấ ơ ả ủ ớ tuy t vĩnh c u d i đáy bi n B c c c, phóng thích ra hàng tri u t nế ử ướ ể ắ ự ệ ấ và l ng băng ph thu h p d n.ượ ủ ẹ ầNh ng dòng mê-tan ng m kh ng lữ ầ ổ ồ đang xì lên trên m t băng vùng B c c cặ ắ ự do tráiđ t nóng lên - nh: Independentấ ẢKh i l ng mê-tan ng m này r t quan tr ng b i vì các nhà khoa h cố ượ ầ ấ ọ ở ọ tin r ng s phóng thích c a chúng trong th i gian qua là nguyênằ ự ủ ờ nhân làm cho nhi t đ trái đ t tăng nhanh, gây ra s thay đ i khíệ ộ ấ ự ổ h u và khi nậ ế m t s loài b di t ch ng.ộ ố ị ệ ủCon tàu nghiên c u Jacob Smirnitskyi c a các nhà khoa h c đã đi h t chi u dàiứ ủ ọ ế ề b bi n phía b c c a Nga. H phát hi n n ng đ khí mê-tan t p trung v i m cờ ể ắ ủ ọ ệ ồ ộ ậ ớ ứ đ l n trên vài khu v c bao ph hàng nghìn d m vuông trên th m l c đ aộ ớ ự ủ ặ ề ụ ị Siberia, có n i g p 100 l n m c bình th ng. ơ ấ ầ ứ ườTrong vài ngày qua, nhóm nghiên c u đã nhìn th y nh ngứ ấ ữ vùng bi n s i b t vì nh ng “ ng khói mê tan” m c lên t đáy bi n.ể ủ ọ ữ ố ọ ừ ể H tin r ng l p băng vĩnh c u d i bi n, có tác d ng nh nh ngọ ằ ớ ử ướ ể ụ ư ữ “n p vung” c n tr s thoát khí mê-tan, đã tan ch y vàắ ả ở ự ả c nh báoả r ng đi u này có liên quan t i s m lên nhanh chóng t i khu v cằ ề ớ ự ấ ạ ự này trong nh ng năm g n đây. ữ ầTi n sĩ Orjan Gustafsson, thu cế ộ Đ i h cạ ọ Stockholm University, m t trong nh ng ng i đ ng đ u nhóm thám hi m, nh n đ nh:ộ ữ ườ ứ ầ ể ậ ị "L p băng giá vĩnh c u hi n đã có nh ng l th ng. L ng khí mêớ ử ệ ữ ỗ ủ ượ tan mà chúng tôi phát hi n trên m t bi n và trong n c bi n rõ ràngệ ặ ể ướ ể xu t phát t đáy bi n".ấ ừ ểMê-tan là lo i khí gây hi u ng nhà kính g p 20 l n COạ ệ ứ ấ ầ2, và nhi u nhà khoa h c s r ng s phóng thích c a nó có th tăng t cề ọ ợ ằ ự ủ ể ố hi u ng nhà kính trong m t quy trình xoay vòng: b u khí quy n cóệ ứ ộ ầ ể nhi u khí mê-tan đ y nhi t đ tăng cao h n, khi n cho l p băngề ẩ ệ ộ ơ ế ớ vĩnh c u tan ch y thêm và t đó mê-tan l i phóng thích nhi u h nử ả ừ ạ ề ơ n a.ữTheo tính toán, kh i l ng khí mê-tan d i B c c c l n h n t ngố ượ ướ ắ ự ớ ơ ổ tr l ng carbon các m than trên toàn th gi i.ữ ượ ở ỏ ế ớNhi t đ toàn vùng B c c c đã tăng thêm 4 đ C trong vài th p k qua và đã cóệ ộ ắ ự ộ ậ ỷ m t s suy gi m đáng k m c đ ph băng B c Băng d ng trong mùa hè.ộ ự ả ể ứ ộ ủ ở ắ ươ L p băng suy gi m cũng làm tăng hi u ng nhà kính vì m t bi n l ra s h p thớ ả ệ ứ ặ ể ộ ẽ ấ ụ ánh n ng m t tr i nhi u h n khi có băng bao ph .ắ ặ ờ ề ơ ủB.LỤC ĐỊA:• VỎ LỤC ĐỊA :Khi quan sát Trái Đất, ta thấy 71% của Trái Đất là nước, 29% còn lại là đất liền. Có thể chia phần đất liền này thành 6 mảnh lớn, gọi là lục địa. Các lục địa được sắp xếp theo sự tăng dần của kích thước là: lục địa Á – Âu , lục địa châu Phi, lục địa Bắc Mĩ, lục địa Nam Mỹ, lục địa châu Nam Cực và châu Úc. Trong quá khứ các lục địa được phân chia theo cách khác.Vỏ Trái Đất dày nhất là phần ở dưới lục địa, trung bình dày khoảng 30-40 km, nơi dày nhất khoảng 70km. Vỏ lục địa có tuổi già hơn vỏ đại dương,có nhiều loại đá lên đến 3,8 tỉ năm tuổi. Vỏ lục địa phần lớn bao gồm đá và chia thành 2 địa tầng. Phần ở trên bao gồm đá granic trong khi phần ở dưới bao gồm bazan và dioric.Đá granite có màu sáng, hạt thô. Dioric có cùng cấu tạo như thế, nhưng chúng hiếm hơn đá granite và được cấu tạo từ tạp chất magma-granite. Khối lượng riêng của vỏ lục địa là 2,7g/cm3.S ự h ình th ành l ục đ ịa:Lục địa là một mảng đất liền nổi trên lớp vỏ bề mặt của Trái Đất, chiếm tổng diện tích khoảng hơn 148,64 triệu km². Lục địa được chia ra làm 6 châu xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn như sau: châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Nam Cực, châu Âu và châu Đại Dương. Trong hàng triệu năm, đáy biển bị di chuyển, các lục địa bị trôi dạt và lực kiến tạo mảng (tectonophysics) sẽ làm cho các lục địa rời xa nhau hơn.• ĐỊA HÌNH LỤC ĐỊA:Địa hình lục địa là sản phẩm của quá trình địa chất nội sinh và ngoai sinh:Qúa trình nội sinh:+Hoạt động nứt gãy tạo các dòng sông, các bồn trũng kiểu địa hào và các địa lũy trước núi.+Hoạt động tạo núi tạo ra các dãy núi cao có địa hình đa dạng, phân cắt và hệ thống thủy văn.+Hoạt động núi lửa hình thành các dãy núi hoặc các đỉnh núi cao sắc nhọn và hiểm trở.Qúa trình ngoại sinh:+Hoạt động phong hóa phá hủy đá gốc khi đá lộ trên bề mặt vỏ Trái Đất.+Hoạt động xói mòn, xâm thực do hệ thống thủy văn hình thành các bề mặt san bằng, các thềm mài mòn, mài mòn-tích tụ của sông và biển, các núi cao có địa hình dốc hiểm trở, phân cách mạnh biến thành vùng núi thấp và vùng đồi có địa hình mềm mại.+Hoạt động vận chuyển phân dị vả lắng đọng trầm tích do gió và môi trường nước tạo nên các kiểu thực thể trầm tích đa dạng làm thay đổi sơn văn địa hình nguyên thủy của qqua1 trình nội sinh. Các địa hình liên quan:*Sườn tích: Nơi sườn tích có bề dày lớn, quá trình tích tụ lâu dài thì ở đó địa hình thoải hơn. Ngược lại nơi không có sườn tích, vỏ phong hóa mỏng, thậm chí còn lộ đá gốc tươi thì ở đó địa hình phân cách mạnh, núi dốc đứng cheo leo, hiểm trở.*Đồng bằng có nguồn gốc sông và sông-biển hình thành trong đệ tứ khoảng 1.6 triệu năm đến ay có đặc điểm chung là các đồng bằng được sinh ra và trưởng thành qua 5 giai đoạn chịu sự điều tiết của 5 pha biển tiến vả biển thoái toàn cầu.*Các địa hình do gió ở sa mạc và cồn cát ven biển đều có điểm chung là cát đụn có dạng lưỡi liềm(Backhan), phân lớp gợn sóng trên mặt và phân lớp xiên xéo bên trong các thực thể cát.*Địa hình bờ biển là kết quả của hạot động nội sinh và ngoại sinh. Hoạt động nội sinh gồm chuyển động kiến tạo(đứt gãy, nâng-hạ), hoạt động núi lửa. Hoạt động ngoại sinh gồm quá trình bồi tụ, xói lở 2 bờ do tương tác sông-biển và tương tác lục địa-biển. Qúa trình bồi tụ và xói lở có cấu trúc địa chất và thành phần thạch học liên quan đến các yếu tố động lực đặc trưng và tạo nên các dạng bờ biển tiêu biểu:i.Bờ biển cửa sông hình phễu: chuyển động kiến tạo sụt lún thống trị, thiếu hụt trầm tích, cửa sông có dạng hình phễu.ii.Bờ biển hình quạt: chuyển động kiến tạo sụt lún nhẹ, cửa sông dư thư2a tea62m tích, đền bù vượt quá biên độ sụt lún kiến tạo, bờ biển bồi tụ, đường bờ dịch chuyển về phía biển.iii.Bờ biển có dạng hình cánh cung lõm: đặc trưng cho các vùng bờ cát thạch anh chọn lọc, mài tròn tốt đang bị xói lở nằm giữa hai mũi biển là đá dốc rắn chắc.iv.Bờ biển có dạng doi cát nối đảo(Tombolo) và các vịnh nhỏ.v.Bờ biển có đá gốc lộ ra thường có dạng sau: vách cliff dựng đứng, thềm mài mòn do sóng, bãi triều, khối tảng, cụi sạn mài tròn tốt, chọn lọc kém. BIỂN,ĐAI DƯƠNG,LỤC ĐỊA VÀ NHỮNG ĐIỀU CHƯA BIẾTChâu Phi: M t đ i d ng m i đang hình thànhộ ạ ươ ớCác nhà địa lý Anh và Ethiopia trong khi khảo sát địa chất ở Ethiopia, đã bất ngờ phát hiện một kẽ nứt phát triển rất nhanh, chỉ trong vòng 3 tuần đã dài 60 km và rộng 8 m ở sa mạc Afar, và đây có thể là sự bắt đầu của quá trình hình thành một đại dương mới. Giáo sư Cindy Ebinger của Trường Đại học London cho rằng con người hiện đại đang chứng kiến sự kiện lớn đầu tiên trong quá trình hình thành một đại dương mới của Trái Đất và quá trình này có thể kéo dài hàng triệu năm. Nhóm nghiên cứu cho rằng kẽ nứt phát triển nhanh này là khởi đầu của một quá trình dài tách phần phía Đông của Ethiopia khỏi lục địa châu Phi để tạo ra một đại dương. •Burntcoat HeadTại Burntcoat Head thuộc vịnh Fundy ở Nova Scotia (Canada), các đợt thủy triều có thể dâng cao tới 11,7 m, là nơi có thủy triều cao nhất. Vịnh FundyVịnh Fundy có hình cái phễu do vậy mà thường xuyên tạo nên những đợt nước triều lớn.Núi CotopaxiNúi Cotopaxi ở Ecuador có sông băng duy nhất vắt qua đường xích đạo.83. Hồ lớn nhất ở Bắc Mỹ?Hồ Superior là hồ lớn nhất ở Bắc Mỹ.85. Dãy núi dài nhất thế giới?Dãy Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Đại Tây Dương từ bắc tới nam.Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.Hình thành lục địa thứ 7phát hiện một “tân lục địa” nằm giữa quần đảo Hawaii và miền duyên hải Bắc Mỹ. Đó chính là “bãi rác lớn nhất Thái Bình Dương”, hay còn gọi là “lục địa thứ 7”, được hình thành bởi hàng triệu tấn rác thải với sự “trợ giúp” của các dòng hải lưu.Biển đang trở thành một “bô rác” khổng lồKẾT LUẬN:Nghiên cứu lục địa, biển, đại dương giúp con người xác định được hiện trạng Trái Đất, những nguy cơ tiềm ẩn về động đất, núi lửa, sóng thần… từ đó đưa ra những biện pháp ngăn chặn thiên tai và các hoạt động gây nguy hại đến mội trường sống; đồng thời phát huy những tiềm năng của lục địa, biển để phát triển kinh tế, đưa con người vào một thế giới mới với những tìm tòi khám phá mới mẻ.Hãy bắt đầu quan tâm hơn tới Trái Đất của chúng ta, chính sự hiểu biết của các bạn sẽ giúp bảo vệ hành tinh tươi đep này.