So sánh hình thể ngoài của tim và phổi năm 2024

Siêu âm tim qua thành ngực là kỹ thuật siêu âm tim phổ biến nhất. Trong siêu âm qua thành ngực, một đầu dò được đặt dọc theo bờ trái hoặc bờ phải xương ức, mỏm tim, hõm ức (để nhìn van động mạch chủ, đường ra thất trái và động mạch chủ xuống), hoặc vị trí dưới hõm ức. Siêu âm qua thành ngực cung cấp hình ảnh 2 hoặc 3 chiều của hầu hết các cấu trúc tim chính. TTE là một kỹ thuật hình ảnh tương đối rẻ tiền và không xâm lấn để chẩn đoán chức năng thất trái và chuyển động thành trái, kích thước buồng tim và giải phẫu, chức năng cấu trúc van tim, cấu trúc rễ động mạch chủ và áp lực trong tim.

(POCUS) là siêu âm tim sơ bộ (tập trung vào việc phát hiện tràn dịch màng ngoài tim đáng kể và rối loạn chức năng tâm thất) đôi khi được thực hiện bên giường bệnh của những bệnh nhân nặng trong khoa hồi sức tích cực hoặc khoa cấp cứu; các bác sĩ nội khoa hoặc bác sĩ cấp cứu thường được đào tạo làm siêu âm tim sơ bộ với máy cầm tay vì không phải lúc nào bác sĩ chẩn đoán hình ảnh hoặc chuyên khoa tim mạch có kinh nghiệm cũng sẵn có ở các đơn vị này. Máy cầm tay di động hoạt động như một công cụ sàng lọc tốt để xác định bệnh nhân nào có thể yêu cầu xét nghiệm chi tiết hơn. Với việc mở rộng sử dụng bởi các bác sĩ ít kinh nghiệm, hạn chế chính là bỏ sót các chẩn đoán. Gần đây, các tổ chức xã hội quốc gia đang đưa ra các khuyến nghị về đào tạo về POCUS tim mạch để tạo điều kiện cho việc sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán tốt nhất. Các vị trí sử dụng POCUS tim mạch nên phát triển các tiêu chuẩn để sử dụng trong thực hành.

Trong siêu âm tim qua thực quản, một đầu dò trên đầu ống nội soi cho phép quan sát tim từ dạ dày và ống thực quản. Siêu âm tim qua thực quản được áp dụng để chẩn đoán khi siêu âm tim qua thành ngực khó khăn, ví dụ ở bệnh nhân béo phì và ở bệnh nhân COPD. Siêu âm tim qua thực quản cung cấp hình ảnh các cấu trúc bất thường nhỏ một cách rõ ràng hơn (ví dụ, sùi nội mạc cơ tim hoặc còn lỗ bầu dục). Nó cũng cho ta dễ dàng quan sát các cấu trúc ở phía sau gần ống thực quản như nhĩ trái, tiểu nhĩ trái, vách liên nhĩ, giải phẫu tĩnh mạch phổi. Siêu âm tim qua thực quản cũng có thể cung cấp hình ảnh của động mạch chủ lên, hình ảnh của các cấu trúc < 3 mm (ví dụ huyết khối, sùi), và các van nhân tạo.

Trong siêu âm trong buồng tim, một đầu dò gắn ở đầu ống thông (được đưa qua tĩnh mạch đùi vào tim) cho phép quan sát cấu trúc giải phẫu tim. Siêu âm buồng tim có thể được ứng dụng trong quá trình can thiệp tim mạch phức tạp (ví dụ, đóng lỗ thông liên nhĩ hoặc lỗ bầu dục qua da) hoặc trong quá trình thăm dò điện sinh lý học tim. Siêu âm trong buồng tim cung cấp chất lượng hình ảnh tốt hơn và giảm thời gian thủ thuật khi so sánh với siêu âm qua thực quản. Tuy nhiên, siêu âm trong buồng tim nói chung là tốn kém hơn.

Siêu âm hai bình diện được ứng dụng rộng rãi nhất. Siêu âm cản âm và siêu âm Doppler giúp cung cấp thêm nhiều thông tin hơn.

Siêu âm tim cản âm là kỹ thuật siêu âm 2 bình diện được thực hiện trong khi tiêm nhanh một dung dịch nước muối sủi bọt (hoặc một chất cản âm khác vào hệ thống tuần hoàn. Dung dịch nước muối sủi bọt này khi tiêm vào tĩnh mạch sẽ về buồng tim phải. Khi đó, nếu có một lỗ thông ở vách tim, ta sẽ nhìn thấy bọt ở bên buồng tim trái. Thông thường, các bọt cản âm không đi qua hệ mao mạch phổi. Tuy nhiên, có một loại bọt cản âm dạng albumin có thể đi qua hệ mạch phổi về tim trái và từ đó giúp ta nhìn được cấu trúc tim trái, nhất là thất trái.

Siêu âm phổ Doppler giúp ta xác định được vận tốc, hướng, và loại dòng máu. Kỹ thuật này rất hữu ích cho việc phát hiện dòng máu bất thường (ví dụ như trong hở van tim) hoặc vận tốc bất thường của dòng máu (ví dụ như trong hẹp van tim). Siêu âm Doppler không cung cấp các thông tin về không gian ví dụ như kích thước và hình dạng của tim và các cấu trúc của tim.

Siêu âm Doppler màu kết hợp siêu âm tim 2 bình diện và siêu âm Doppler để cung cấp thông tin về kích thước và hình dạng của tim và các cấu trúc của nó cũng như vận tốc và hướng dòng máu qua van và các đường ra của tâm thất. Theo quy ước, màu đỏ để chỉ các dòng máu hướng về phía đầu dò, màu xanh để chỉ dòng máu đi xa khỏi đầu dò.

Siêu âm Doppler mô sử dụng kỹ thuật Doppler để đo vận tốc co bóp của cơ tim (chứ không phải là dòng máu). Sự chuyển động của cơ tim cũng có thể được đánh giá siêu âm tim theo dõi, trong đó sử dụng các thuật toán để theo dõi các vết echo cơ tim (tiếng vang đặc trưng từ cơ tim trong quá trình siêu âm) từ khung này sang khung khác. Hình ảnh về sức căng sử dụng những dữ liệu này để tính toán sức co cơ tim (tỷ lệ phần trăm thay đổi số đo giữa thì co cơ tim và thì giãn cơ tim) và tốc độ co cơ tim (tốc độ thay đổi số đo). Sức co và tốc độ co cơ tim có thể giúp đánh giá chức năng tâm thu và tâm trương và xác định tình trạng thiếu máu cơ tim khi làm nghiệm pháp gắng sức.

Siêu âm tim ba bình diện ngày càng được sử dụng rộng rãi; đầu dò đặc biệt tạo ra một hình ảnh ba chiều trong thời gian thực của giải phẫu và chức năng tim. Siêu âm ba chiều đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá bộ máy van hai lá để định hướng cho phẫu thuật. Kỹ thuật này vẫn tiếp tục được nghiên cứu và phát triển tuy nhiên việc ứng dụng rộng rãi ở Mỹ bị hạn chế do vấn đề chi phí.

Siêu âm tim gắng sức rất có giá trị trong việc đánh giá mức độ rối loạn huyết động của dòng máu qua van ở bệnh nhân hẹp van động mạch chủ có triệu chứng đáng kể mà chênh áp qua van khi nghỉ không cao rõ rệt. Siêu âm tim gắng sức và nghiệm pháp gắng sức hạt nhân có giá trị tương đương trong việc phát hiện vùng cơ tim thiếu máu. Việc lựa chọn phương pháp nào phụ thuộc vào tính sẵn có, kinh nghiệm của bác sĩ và giá thành.

So sánh hình thể ngoài của tim và phổi năm 2024

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.