So sánh súng chống tăng b40 và b41 năm 2024

Còn cái ngòi nổ chậm ấy đúng là cần nhiều đấy, để chống công sự cát chẳng hạn, nhưng không hỉu sao mãi vẫn chưa có. Cách giải thích duy nhất là ngày nay không ai quan tâm phát triển B40 nữa.

Về liều lõm, mình đã giải thích rõ ở địa chỉ trên. M72 là liều lõm dạng ống nòng súng, phản ứng nổ cần truyền vừa phải để luôn đi sau "viên đạn": là khí nén nóng tốc độ cao do nó tạo ra. Tùy hình dáng kích thước đạn mà người ta làm chậm tốc độ tuyền nổ bằng đúc, như trộn với TNT và các phụ gia. Liều kiẻu này phản ứng nổ cần truyền từ đuối đạn lên cạnh chữ V, nếu nhanh quá thì nó dập tốc độ "Viên đạn" hinh thành trong trục đạn.

Ngược lại, đạn góc mở lớn cần điểm hỏa toàn bộ mặt lõm cùng lúc, nên mới có mạch dẫn phản ứng nổ vào giữa cạnh chữ V, chứ không bắt đầu từ đuôi liều lõm.

huyphuc1981_nb: Năm 1946, đường kính nòng 45mm, đường kính đạn 110mm, tầm xa nhất 200 mét, tầm bắn hiệu quả 100 mét, xuyên 250mm. Súng dài 1030mm, đạn dài 720mm. Súng nặng 6,4kg, đạn nặng 3,74kg. Sơ tốc 70m/s tốc độ bắn 4-5 phát phút. Thước ngắm có 3 thang 50-150-200.

Bác đoàn này, hình như hồi cuối Kháng chiến đánh tây nhà ta có nhập về phải không nhẩy. Bác làm ơn số hóa cái đầu to của bác hộ cái, để em search cho nhanh.

huyphuc1981_nb: Quân Mỹ thì ưa quảng cáo. Thường đem M72 ra so với B41, nhuqưng thực ra, tầm cỡ M72 chỉ so với B40 khoản chống tăng. M72 là súng liền đạn dùng một lần.

M72 được thiết kế và chấp nhận trang bị sau B41, được coi là vũ khí đối đầu với B41. Tuy nhiên, sự nhiệp của B42 thì hoành tráng vang dội, danh tại thiên thu, ngược hẳn với M72. Nhiều thằng như Iran, Israel ngày trước đánh Iraq, phe Mỹ đàng hoàng nhưng cứ dùng B41.

M72 có tầm bắn mục tiêu di động thấp, 165 mét, so với B40 là 150 mét. Nhưng khả năng xuyên của đầu đạn M72 có nhiều vẫn đề, vậy nên hiệu quả thật sự thấp, điều đó được thể hiện trong chiến tranh. Tầm bắn hiệu quả thấp do súng này tản mát và không xuyên được nhiều phần trên xe, làm diện tích mục tiêu hữu ích tụt xuống. Khó mà so sánh xem thằng nào hơn, có lẽ M72 hơn chút chăng ??? Cái nổi trội của M72 là không cần súng, tất cả mọi người đều có thể tham gia bắn. Tầm bắn tối đa rất cao, 1000 mét. Nhờ vậy, súng này thuận tiện làm "dã pháo" sát thương. Ở chức năng làm "dã pháo", súng này quá đỉnh, vượt xa B40 và B41.

Tuy nhiên, quân ta lại có nhiều M79 còn đỉnh hơn quá đỉnh, nên M72 thất nghiệp. Một phiên bản của ta là M72 bắn loạt, đạn cháy. Ngay cả những năm khó khăn 1970, quân ta còn phải dùng rất nhiều B40, nhưng không có ai định lấy M72 ra thay B40 cả.

huyphuc1981_nb: Trong này đã nói vè tiến trình thay thế B40 thành B41. http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1136.msg13795

msg13795

Đến lúc tớ ở lính thì chỉ có những sư đoàn bộ binh cơ giới mới đầy đủ B41, còn những sư đoàn bộ binh đi bộ như 325 thì B41 vẫn rất ít, cỡ có một nửa. Có thể hình dung tiến trình thay thế như sau: Năm 1964, B40 đã là vũ khí tiểu đội trong những sư đoàn chủ lực ở miền Bắc. Cũng không hiểu B40 lên đường vào Nam từ bao giờ, B40 có được trang bị cho những lực lượng không phải bộ binh chủ lực không. Khi đã là vũ khí tiểu đội, mỗi đại đội bộ binh có 9 khẩu. Năm 1965-1966: B41 đã vào Việt Nam số lượng ít, đến năm 1966 những sư đoàn mạnh đã có mỗi đại đội 1-2 khẩu. Không hiểu các đơn vị biên chế số B41 đó thế nào ????? rất có thể, B41 lúc đó nằm trong tiểu đội hỏa lực mạnh của đại đội. Một khả năng ít xảy ra là, các súng B41 trong trung đoàn tập hợp thành một trung dội hay đại đội mạnh, 3 người 2 khẩu hay 2 người một khẩu, cũng có thể là 3 người 1 khẩu. Trong khi đó, B40 vẫn là vũ khí chủ lực đại đội, mỗi đại đội 9 khẩu. Giai đoạn trung gian này hơi phức tạp, không biết bố trí B41 ở đâu. Đến năm 1971 thì các đại đội chủ lực đều có B41. Đến năm 1979, đánh hai chiến tranh biên giới thì B40 vẫn phổ biến. Việc thay thế hoàn toàn B40 chỉ có thể kết thúc vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20, thập niên 1990. Như vậy, việc chúng ta thay thế B40 diễn ra hết sức chậm. Súng chóng tăng cấp tiểu đội của chúng ta luôn ở trạng thái hết sức lạc hậu.

Chúng ta tiến hành nghiên cứu sản xuất B40 rất sớm, trước cả RPK hay AK hiệu TUL năm 1969. Tuy nhiên, B40 hiệu CT-62 có vẻ như quá đen đủi. Nó sinh ra trong thời kỳ bên tầu đang "cách mạng văn hóa", mà mục tiêu chủ yếu của cách mạng này là đàn áp lớp trí thức mới nổi, công nghiệp mới nổi. Chúng ta từng tự chế rất nhiều súng chống tăng trong Kháng chiến đánh Tây, nhưng truyền thống đó không được tiếp tục với B40. Và cũng không tiếp tục với B41. Thật đáng tiếc, truyền thống đó thui quá sớm. Các nhà kỹ thuật thì thừa kiến thức và quyết tâm.

Đây là một loại súng chống tăng không giật dùng cá nhân. Các xe tăng chiến đấu chủ lực mà B41 phải đối mặt lúc đó là M-48, M-60.. đã được thay thế bằng M1A2, Challenger-2, Leopard-2A6, Merkava-IV. Tuy nhiên, ngay cả những chiếc xe tăng hiện đại nhất thế giới này vẫn bị B41 đánh bại như thường.

So sánh súng chống tăng b40 và b41 năm 2024

Súng này được rất nhiều nước sản xuất, kể cả có được phép bản quyền hay không. Kể cả những nước không thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa như Pakisstan, Iran, Iraq. B41 cũng có nhiều phiên bản giống hệt nhưng khác tên, cải tiến khác chút ít. B41 sử dụng nguyên lý phóng khí động cân bằng, hoàn toàn khác phương pháp phóng của B40. Đầu đạn của B41 cũng có những cải tiến khác xa B40. Phương pháp khí động là phương pháp dùng các tuye thay đổi tốc độ áp suất dòng khí.

Thuật ngữ quân sự trong tiếng Anh là anti tank rocket launcher (có nghĩa là "súng phóng tên lửa chống tăng"), tuy nhiên, B40 dùng kỹ thuật tên lửa rất ít, chỉ đến B41 thì kỹ thuật này mới đóng vai trò lớn trong đẩy đạn.

B41 dài 953 mm khi không đạn và 1,340 mét với đạn RPG-7. Súng ban đầu nặng 7,9 kg, đạn PG-7 nặng 2,25 kg. RPG-7D là súng gọn nhẹ cho lính đổ bộ đường không, súng có nòng sau (phần có tuye sau) tháo ra được lắp vào bộ gá dưới buồng đốt, khi sử dụng cắm vào phần còn lại, các súng hiện đại nhẹ hơn.

So sánh súng chống tăng b40 và b41 năm 2024
B41 cùng với B40, ĐKZ 82 mm và ĐKZ 75 mm tạo thành nhóm súng diệt nhiều xe cộ nhất sau Thế chiến thứ hai.

B41 có đường kính trong 40 mm, cỡ đạn to hơn cỡ nòng, đạn chỉ nhồi chuôi vào nòng súng. Giữa thân súng phình to ra thành một buồng rộng, đây là buồng đốt, chứa liều phóng. Việc tạo thành buồng đốt này sẽ đẩy súng về phía trước, nhưng lực này được cân bằng bởi lỗ thoát khí và tuye sau.

Chỗ phình ra của nòng có ốp lót gỗ dán (về sau thay bằng nhựa tổng hợp) chống nóng vai xạ thủ. Súng có hai tay cầm, với người thuận bên phải thì tay phải đặt trước, trái sau.

So sánh súng chống tăng b40 và b41 năm 2024
Đây là một trong những súng được sản xuất rộng nhất.

Súng có kim hỏa, cò bấm giống B40. Cũng có lò xo đẩy kim hỏa về không cản trở đạn di chuyển. Cấu tạo của B41 làm cho áp suất không tăng quá nhanh như B40. Khi áp suất cao, cấu tạo tuye xoáy trong nòng của đạn làm áp suất đồng đều và giảm chậm. Tuye sau súng làm giảm chiều dài súng.

Nhờ áp suất tăng chậm nên dùng được liều phóng thuốc súng không khói, có năng lực mạnh hơn thuốc nổ đen của B40, nhồi cũng nhiều hơn. Nhờ cấu tạo này, sơ tốc đạn lớn nhưng tiếng nổ trầm do áp suất tăng giảm chậm. Tuy trầm, nhưng chấn động tiếng nổ đầu nòng rất mạnh và nguy hiểm.