Sự khác nhau giữa đạo Phật và Thiên Chúa giáo

Điểm giống nhau giữa Phật giáo và Thiên chúa giáo

Phật giáo Thiên Chúa giáo là hai tôn giáo xuất sinh hoàn toàn độc lập, cách nhau 500 năm và hơn 4.800 km. Đồng thời về hệ thống niềm tin tôn giáo cũng có điểm khác nhau. Tuy nhiên, bất chấp nhiều khác biệt, vẫn luôn tồn tại rất nhiều điểm tương đồng lạ lùng giữa hai tôn giáo này. Cụ thể như:

Cả hai vị đều rời khỏi nhà đi tìm con đường giác ngộ và đối mặt với ma quỷ

Cả Phật Thích Ca Mâu Ni hay Chúa Giê-su đều được kể là đã rời bỏ nhà lúc sinh thời để tìm kiếm chân lý vượt trên những truy cầu lợi ích của con người nơi thế gian. Cả hai vị đều tự dẫn mình đến những nơi hoang dã. Họ đã phải một mình đối mặt với các thế lực ma quỷ và những cám dỗ của con người. Cả hai đều vượt qua, giác ngộ đạo lý và sau đó truyền bá những triết lý vĩ đại của mình.

Cả hai vị đều truyền đạo

Đức Phật lần đầu thuyết pháp tại vườn Lộc Uyển, thuộc miền đông Ấn Độ ngày nay. Tại đây Ngài đã giảng ra kinh nghiệm giác ngộ của mình vốn trở thành nền tảng của Phật giáo sau này: Tứ Diệu Đế.

Theo sách Phúc Âm Luca, Chúa Giê-su bắt đầu con đường truyền đạo khi Ngài khoảng 30 tuổi. Ngài giảng đạo lần đầu tiên ở một ngọn núi gần biển hồ Galilee, Isarel. Những đạo lý đó sau này được viết vào Kinh Phúc Âm, nói về lối sống chuẩn mực cho các tín đồ Kitô giáo.

Phật giáo và Thiên Chúa giáo đều có tư tưởng truyền đạo để chúng sinh cùng giác ngộ

Sau đó, Ngài đã đi khắp nơi để thuyết giảng tin lành, khuyên nhủ con người tránh xa tội lỗi, sống khoan dung, độ lượng, biết trao yêu thương và hãy kiên định vào đức tin vào Thiên Chúa. Lời giảng của Ngài đã thức tỉnh biết bao người, họ tụ họp thành đám đông và tìm đến nghe ngài giảng đạo.

Cả hai vị đều giảng chi tiết và có hệ thống về việc làm thế nào các tín đồ có thể sống theo những luân lý đạo đức của họ.

Cả hai đều bị hãm hại

Cả hai vị đều thu nhận những môn đệ và một trong số họ sau đó đã phản bội các Ngài.

Đề Bà Đạt Đa - anh họ và cũng là đồ đệ của Phật Thích Ca Mâu Ni, vì lòng ghen tỵ nên đã cố gắng sát hại Ngài rất nhiều lần nhưng Đức Phật đều tha thứ. Tướng cướp Vô Não cũng đã cố gắng sát hại Ngài nhưng cuối cùng lòng từ bi của Ngài đã hóa giải tất cả và khiến tướng cướp quy phục và trở thành đồ đệ của mình. Sau này, Đức Phật bị một người tên là Thuận Đà đầu độc, sức khỏe suy yếu dần và nhập Niết Bàn.

Còn trong Thiên Chúa Giáo, vì quá nhiều người tin vào Chúa Giê-su nên dẫn tới sự đố kỵ của giới lãnh đạo Do Thái giáo. Các thầy thượng tế và trưởng lão Do Thái giáo bàn bạc với nhau để tìm cách giết chết Giê-su. Thế là họ mua chuộc phản đồ Judas, bắt trói Chúa Giê-su trong đêm, rồi áp giải đến tòa công luận, dẫn tới cái chết vĩ đại của Ngài trên cây thập tự giá.

Cả hai vị đều thu nhận những môn đệ và một trong số họ sau đó đã phản đội các Ngài

Dù bị những người thân tín của mình hãm hại, nhưng cả Đức Phật và Chúa Giê-su đều tha thứ cho họ.

Trong thực tế, cả Đức Phật và Chúa Giê-su đều đã tạo nên những động lực hết sức cao thượng để con người hành thiện, tránh ác, sống một cuộc đời cao đẹp. Cả hai vị đều đã xoa dịu biết bao đau khổ cho nhân loại. Sự tồn tại của hai tín ngưỡng này có ý nghĩa thật to lớn. Thế giới nếu mất đi những điều hết sức quý báu thì sẽ khó mà duy trì được.

Từ giáo lý của Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo đều đã sinh ra những con người tốt đẹp, biết hạnh phúc và hoan hỷ dù cho bao khổ đau có xảy đến cho mình, từ bi bác ái, biết xả thân cho những lý tưởng cao đẹp, hy sinh cho người khác, luôn luôn nỗ lực làm cho thế giới này bớt đau khổ.

Điểm giống nhau

  • Phật giáo và Thiên Chúa giáo điều được sáng lập bởi một người Thầy tâm linh và thu nhận môn đệ.
  • Cả hai tôn giáo điều có hệ thống để hỗ trợ, truyền dạy giáo lý của mình cho mọi người như: Tăng đoàn, nhà sư, tăng ni…bên Phật giáo. Linh mục, giám mục, bà xơ…bên Thiên Chúa giáo.
  • Cả hai điều có ngày lễ chính: Ngày lễ Phật đản [lễ Vesak] để mừng ngày sinh của Đức Phật. Bên Thiên Chúa giáo là ngày lễ Giáng sinh và Phục sinh.
  • Được dạy thông qua việc sử dụng các giáo lý nhân văn.
  • Cả Đức Chúa Giê-su và Đức Phật đều cố gắng cải cách những thực tiễn xã hội.Chúa Giê-su Kitô chỉ trích những người cho vay tiền trong nhà thờ. Đức Phật Thích Ca chỉ trích hệ thống giai cấp và nghi lễ hiến tế thần linh của người Bà la môn.
  • Cả hai đều là người bình thường, giản dị. Đức Phật chấp nhận tất cả các giai cấp làm học trò của mình. Chúa Kitô dạy triết học của ông cho nhiều người mà ông gặp.
  • Ngũ giới của Phật giáo [hình thức kiêng cữ, nói dối, trộm cắp, vô đạo đức, tình dục] được hầu hết các Kitô hữu hoan nghênh.
  • Cả hai tôn giáo đều nhấn mạnh đến cuộc sống đạo đức, từ bi và tình yêu đối với người khác.
  • Cả hai đều dạy cách vượt qua những thế lực thù hận thông qua sức mạnh của tình yêu.
  • Phật giáo và Thiên Chúa giáo điều khuyến khích những người thực hiện các bước tâm linh để cải thiện phúc lợi của họ. Những người đạo Thiên Chúa thường xuyên đọc kinh thánh và cầu nguyện trong các bữa ăn của mình. Điều này cũng phổ biến trong Phật giáo bởi đức tin nơi Đức Phật. Đặc biệt trong các truyền thống như Tịnh độ Phật giáo, nhấn mạnh lời cầu nguyện cho Đức Phật A Di Đà.
  • Cả hai tôn giáo đều khuyến khích các tín đồ của mình làm từ thiện đối với người nghèo.
  • Cả hai tôn giáo đều có nơi tập trung để mọi người đến cầu nguyện và phát triển tâm linh như chùa, nhà thờ, tu viện…
  • Cả hai đều mong muốn sự hoàn hảo tinh thần, mặc dù họ có cách tiếp cận khác nhau.
  • Cả hai đều tìm cách vượt qua thế giới vật chất. Họ tin rằng hạnh phúc thực sự sẽ thu được từ các giá trị tinh thần và ý thức tâm linh.

Ngày nay, sự cởi mở bao gồm sự quan tâm đến những khuynh hướng tôn giáo của người khác. Hai tôn giáo lớn, Công giáo và Phật giáo, luôn được so sánh, bởi vì mặc dù họ có nhiều khác biệt, nhiều người đã cố gắng kết hợp lý tưởng của họ. Nhà lãnh đạo tôn giáo của Công giáo là Giáo hoàng Công giáo La Mã, trong khi người đứng đầu của Đạo Phật là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mặc dù có sự khác biệt trong học thuyết, cả hai nhà lãnh đạo đều thừa nhận sự hiện diện của nhau với sự kính trọng, khác với các nhà lãnh đạo tôn giáo khác có khuynh hướng làm mất uy tín hoặc lambast chống lại các nhà lãnh đạo tôn giáo. Trên thực tế, Đức Giáo hoàng đã đi xa đến mức tuyên bố rằng Phật giáo đã thâm nhập vào nền văn hoá phương Tây với những tác động tích cực.

Để xác định xem một tôn giáo có tương thích với tôn giáo khác hay không thì điều quan trọng là phải so sánh và so sánh chúng trước tiên. Về mặt tương đồng, đạo Công giáo và Phật giáo đều sử dụng các nhà sư, hay linh mục để thực hành và truyền bá đức tin của họ trong quần chúng. Công giáo khuyến khích việc sử dụng thiết bị tôn giáo như trinh nữ và tràng hạt, trong khi Phật giáo sẽ không hoàn chỉnh mà không có hạt cầu nguyện truyền thống. Cả hai tôn giáo đều đánh giá hòa bình, thiền, và truyền bá những hành động tốt để khai triển tinh thần của một người.

Tuy nhiên, điểm tương đồng kết thúc ở đó; một trong những gặp một số khác biệt chính khi Công giáo và Phật giáo được đặt cạnh nhau. Sự khác biệt đầu tiên là Công giáo tin vào một Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng, trong khi Phật giáo thì không. Siddhartha Gautama, người cuối cùng đã trở thành vị Phật đầu tiên, là hình tượng gần gũi nhất trong Phật giáo để giống với Thiên Chúa Công giáo. Tuy nhiên, không giống như Đức Chúa Trời, người được xem là có mặt khắp nơi, Siddhartha Gautama chỉ là người đầu tiên trong một chặng đường dài của chư Phật. Mỗi vị Phật được gọi là hóa thân của trước; tuy nhiên, chúng vẫn được đặt tên khác nhau.

Sự khác biệt thứ hai nằm ở những gì mọi người phải đối mặt trong thế giới bên kia. Phật giáo tin vào hóa thân, trong khi Công giáo tuyên bố rằng người ta có thể đi đến ba địa điểm khác nhau: luyện ngục, thiên đường, hay địa ngục. Trong khái niệm về luân hồi Phật giáo, người ta tái sinh hoặc như một con vật hoặc một người khác. Một người chỉ có thể thịnh vượng trong cuộc sống hiện tại của một người nếu nuôi dưỡng đủ những hành động tốt đẹp trong cuộc sống quá khứ của mình. Mặt khác, đạo Công giáo tuyên bố rằng những kẻ tội lỗi đã bị ném vào Địa ngục, và tội lỗi không phải là tội lỗi cuối cùng đi vào luyện ngục để hối cải vì tội lỗi của họ trước khi lên thiên đàng, nơi được xem là nơi tốt nhất để kết thúc.

In thuật ngữ của các văn bản tôn giáo, Công giáo có một tham khảo chung - Kinh Thánh. Văn bản về Phật giáo không được biên soạn trong một cuốn sách lớn; thay vào đó, họ đã được dạy và truyền lại bằng lời truyền khẩu, bằng sách Pali, hoặc bằng kinh điển.Pali Canon là một bộ sưu tập sách có chứa rất nhiều giáo lý của Đức Phật. Mặc dù nó có sự tương đồng gần giống nhất với Kinh thánh, nhưng nó không được coi là vấn đề tiêu chuẩn trong số những người theo đạo Phật. Kinh là những bản ghi chép từ Đức Phật hiện tại. Về mặt rõ ràng, tuy nhiên, kinh điển có thể khó hiểu như Kinh Thánh. Tuy nhiên, cả kinh điển tiếng Pali và kinh điển đều là thức ăn cho tư tưởng để giúp người Phật tử đạt được sự giác ngộ tâm linh.

Tóm tắt:

1. Công giáo và Phật giáo đều phổ biến, và nhiều người đã cố gắng kết hợp giáo lý của họ.

2. Đức Giáo Hoàng Công giáo Rôma là người đứng đầu Công giáo, trong khi Đức Phật là biểu tượng của đức tin Phật giáo.

3. Cả Công giáo lẫn Phật giáo đều sử dụng đạo luật tôn giáo. Công giáo có kinh Mân Côi và xương cá, trong khi Phật giáo có hạt cầu.
4. Sự khác biệt lớn đầu tiên giữa hai tôn giáo là niềm tin vào Thiên Chúa; Công giáo tin tưởng vào một Đức Chúa Trời toàn năng, Đấng Toàn năng, Đấng Toàn Năng, trong khi Phật giáo thì không. Điều gần gũi nhất với Đức Chúa Trời là Siddhartha Gautama, vị Phật đầu tiên đạt giác ngộ tâm linh.
5. Sự khác biệt lớn thứ hai liên quan đến cuộc sống sau đời; Phật giáo tin vào hóa thân, trong khi Đạo Công giáo thì không.
6. Sự khác biệt lớn thứ ba liên quan đến các văn bản tôn giáo; Công giáo có văn bản chuẩn, Kinh thánh, trong khi Phật giáo dựa vào truyền khẩu, khẩu Pali và kinh điển để tham khảo.

Sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác

Nguyen An

06:23 CH @ Thứ Ba - 29 Tháng Mười, 2019

Xem thêm:

Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ: Phật giáo không thừa nhận có một Thượng Đế sáng tạo, ngự trị và chi phối đời sống của con người. Khổ đau hay hạnh phúc là do mỗi con người tự tác thành cộng với sự chi phối của dòng nghiệp lực cũng do chính mỗi con người tạo ra.

.

1. Phật giáo và các tôn giáo khác giống nhau ở điểm nào?

Phật giáo và các tôn giáo khác đều khuyến khích con người làm các việc lành, tránh xa những điều xấu ác, xây dựng đời sống đạo đức, biết yêu thương và phát triển các giá trị nhân phẩm cho chính tự thân và tha nhân, cho gia đình và xã hội.

.

2. Phật giáo khác các tôn giáo khác ở điểm nào?

Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ: Phật giáo không thừa nhận có một Thượng Đế sáng tạo, ngự trị và chi phối đời sống của con người. Khổ đau hay hạnh phúc là do mỗi con người tự tác thành cộng với sự chi phối của dòng nghiệp lực cũng do chính mỗi con người tạo ra. Đức Phật dạy: “Con người trở nên cao qúi hay đê hèn không phải do nguồn gốc sinh thành từ gia đình hay đẳng cấp xã hội mà trái lại do chính hành động của tự thân làm cho con người trở nên cao qúi hay đê hèn.” Thêm vào đó, điểm khác biệt căn bản trong hệ thống triết lý của Phật giáo và các tôn giáo khác là: Phật giáo cho rằng tất cả pháp [những gì có mặt trên cuộc đời, bao gồm cả tâm và vật] trên thế gian này đều là duyên sinh, có điều kiện; và do đó, tất cả pháp là vô ngã, không hề có một thực thể nào bất biến, vĩnh hằng, cũng không có ai làm chủ đời sống của con người, ngoài trừ con người cá thể. Điều quan trọng nổi bật trong giáo lý của đạo Phật là tất cả chúng sinh đều có Phật tính, và đều có khả năng thành Phật. Sự giác ngộ, giải thoát tối thượng là chân lý bình đẳng đối với tất cả chúng hữu tình mà không phải là một ân sủng đặc biệt dành cho riêng ai. Đây là quan điểm bình đẳng vĩ đại, khó có thể tìm thấy ở những tôn giáo Thần quyền khác.

.

3. Xin cho biết tóm tắt lịch sử của Đức Phật?

Đạo Phật do Đức Thích Ca Mâu Ni [Sakyamuni] sáng lập tại Ấn Độ cách nay hơn 2600 năm. Các nhà sử học hiện đại cho rằng Đức Phật đản sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak vào khoảng năm 625 B.C.E., tại vườn Lumbini [Lâm Tỳ Ni]. Ngài vốn là một hoàng tử, tên Siddhartha [Tất Đạt Đa], con trai duy nhất của vua Suddhodana [Tịnh Phạn] và hoàng hậu Sirimahamaya [Ma Da]. Khi lớn lên, Ngài đã đính hôn với công chúa Yasodhara [Da Du Đà La] và sinh hạ một nam tử tên là Rahula [La Hầu La]. Sau khi nhận thấy rõ chân tướng khổ đau của kiếp người sinh lão bệnh tử, Ngài đã quyết tâm vượt cung thành để tìm chân lý. Trải qua năm năm tìm thầy học đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, sau cùng Ngài đã thành đạo dưới cội Bồ đề [bodhi tree] sau bốn mươi chín ngày thiền định. Kể từ đó, Ngài được gọi là Phật [Buddha]—con người đã giác ngộ, đã giải thoát vòng sinh tử luân hồi [samsāra]. Sau khi giác ngộ, Ngài đã khởi sự truyền bá Chánh Pháp [Dharma]—giáo lý đưa đến sự giác ngộ, giải thoát— và xây dựng giáo đoàn Tăng già [Sangha] trong suốt bốn mươi chín năm. Ngài đã nhập Niết Bàn [Nirvāna] vào năm tám mươi tuổi dưới tàng cây Sala, tại Kusinara, vào khoảng năm 543 B.C.E.

.

Ảnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

.

4. Yếu tính của đạo Phật là gì?

Theo truyền thống, đạo Phật được định nghĩa như sau: đạo là con đường; Phật là sự giác ngộ, giải thoát tối hậu. Do vậy, yếu tính của đạo Phật, như chính tên gọi bày tỏ, là con đường đưa đến sự giác ngộ, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

.

5. Vậy phải chăng đạo Phật chủ trương lìa bỏ thế gian?

Bạn hãy thận trọng với câu hỏi này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người đã đạt được giác ngộ, giải thoát tối thượng, tức là Ngài đã thực thụ giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi ở độ tuổi trung niên. Thế nhưng Ngài vẫn ở lại thế gian thêm hơn bốn mươi năm nữa để truyền bá Chánh Pháp nhằm đem lại lợi ích cho thế gian. Ở đây có hai điểm bạn cần hiểu rõ:

.

a/ Khái niệm giác ngộ [bodhi]trong đạo Phật được hiểu là sự tỉnh thức toàn diện về dòng vận hành của Duyên khởi [pratītyasamutpāda] trong đời sống con người, bao gồm cả tâm lý và vật lý. Do năng lực tỉnh thức toàn diện này mà bạn có thể vượt qua các phiền não, nhiễm ô và kiến lập đời sống an lạc, hạnh phúc cho chính mình. Vả lại, năng lực tỉnh thức được chia thành nhiều cấp độ khác nhau từ thấp đến cao. Nên nhớ rằng, một đời tu tập chưa hẳn đã tạo được cho mình một năng lực tỉnh thức toàn diện [giác ngộ chân lý tuyệt đối], vì nó còn tùy thuộc vào dòng nghiệp lực trong nhiều đời của mỗi cá thể.

.

b/ Khái niệm giải thoát [moksha-vượt lên trên hay vượt ra khỏi]trong đạo Phật cũng vậy, nó bao hàm nhiều cấp độ khác nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn. Khi nào bạn vượt ra khỏi những ràng buộc của các phiền não như tham lam, sân hận, si mê, chấp thủ…trong đời sống của chính mình thì khi đó bạn được giải thoát. Cho đến khi nào tâm thức của bạn hoàn toàn không còn bị chi phối bởi các phiền não đó thì bạn sẽ thực sự hưởng thụ hương vị giải thoát. Thế nhưng, để đạt được sự giải thoát tối hậu đòi hỏi bạn phải bứng tận gốc rễ của các phiền não trong tâm thức của chính bạn một cách toàn triệt, vì chính các phiền não nhiễm ô là cái nhân của sinh tử luân hồi. Do vậy, nói khác đi, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi chính là giải thoát khỏi các phiền não nhiễm ô trong đời sống của chính bạn, và đấy là khái niệm “xuất thế” của đạo Phật. Nên nhớ rằng, để đạt được giải thoát, bạn không cần phải đi đâu hết mà trái lại bạn cần phải tu tập ngay bây giờ và ở đây, ngay nơi con người này và tại thế giới này.

.

6. Vậy, Phật giáo là tôn giáo hay triết học?

Câu hỏi rất bao quát. Vì lẽ, trên thế giới có nhiều tôn giáo và nhiều quan niệm về Thượng Đế, và mỗi tôn giáo đều có chủ trương và học thuyết khác nhau.Tuy nhiên, có thể khái quát hóa các nhóm tôn giáo thế giới theo hai đặc tính căn bản đó là:

.

a/ Theistic religions– tôn giáo tin rằng có sự hiện hữu của một [độc thần giáo] hoặc nhiều [đa thần giáo] vị thần linh như Đấng Sáng Thế, Thượng Đế, hay Phạm Thiên .v.v. sáng tạo và làm chủ đời sống của con người và vạn vật;

.

b/ Non-theistic religions – tôn giáo không tin rằng các vị Thần linh sáng tạo, làm chủ và ngự trị cuộc sống của con người và vạn vật. Trong giới hạn của phân định này, thì Phật giáo là một tôn giáo không có mặt của một Thượng Đế hữu ngã và độc tôn, nhưng có đầy đủ các chức năng của một tôn giáo–theo cách hiểu của ngành tôn giáo học hiện đại–, bao gồm: các lĩnh vực khái niệm như ngôn ngữ, kinh điển, biểu tượng; các hình thức như nghi lễ, hành trì, tu tập; và các mối liên hệ chặt chẽ với xã hội. Mặc dù vậy, không ít người, xưa và nay, vẫn xem Phật giáo như một “triết lý sống”, hay một “triết lý của sự giác ngộ”; và tất nhiên điều đó là hoàn toàn hợp lý cho mỗi cá nhân.

.

7. Vậy, triết lý căn bản của Phật giáo là gì?

Triết lý căn bản của Phật giáo được Đức Phật giảng dạy trong pháp thoại đầu tiên của Ngài, tại vườn Nai [Lộc Uyển] đó là bài Pháp về Bốn Chân lý [Catvāri āryasatyāni-Tứ Thánh Đế]: khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau, và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Pháp thoại tiếp theo bài giảng đầu tiên này, Đức Phật dạy về Vô Ngã, tức là không có một ngã tính thường hằng bất biến trong sự hiện hữu của hợp thể năm uẩn [sắc, thọ, tưởng, hành, và thức]; hay nói khác đi, cả thế giới của tâm lý và vật lý đều không có ngã tính thường tại, vĩnh hằng. Tuy nhiên, bạn cũng nên nhớ rằng trên con đường đi đến giác ngộ, Đức Phật đã thiền quán sâu xa về chân lý Duyên Khởi; và chính trong dòng thiền quán này, Ngài đã giác ngộ toàn triệt và trở thành một vị Phật. Do đó, có thể nói triết lý căn bản của Phật giáo được gói trọn trong các giáo lý: Bốn Chân Lý, Duyên Khởi, và Vô Ngã.

.

8. Nếu Phật giáo không phải là một tôn giáo thần quyền, vậy có thể xem Phật giáo là một tôn giáo khoa học hay một triết lý khoa học?

Gọi như thế nào là tùy sở thích của bạn. Nhưng nên nhớ rằng, Phật giáo từ khởi thủy không có mục đích lý giải hay chứng minh các vấn đề thuộc khoa học như các ngành khoa học hiện đại.

.

Phật giáo không đặt vấn đề nghiên cứu khoa học lên hàng đầu, cũng không xu thế theo các lý giải của khoa học, dù rằng những điều do Đức Phật giảng dạy bao giờ cũng rất khoa học. Và sự thật là, khi khoa học càng phát triển, thì những tiến bộ của khoa học đã giúp ích rất nhiều trong việc giải minh các chủ đề tinh tế trong giáo lý của đạo Phật, nhất là trong các lĩnh vực thuộc tâm-vật lý học [psychophysical]. Có lẽ, đây là lý do mà ngày nay Phật giáo được phát triển nhanh chóng trong các nước tiên tiến, đặc biệt là trong các trường đại học tại Châu Âu và Bắc Mỹ. Vấn đề cốt tủy của Phật giáo, như được trình bày trong Bốn Chân lý, là nhận diện nguyên nhân của khổ đau để chuyển hóa khổ đau thành an lạc, giải thoát. Trên thực tế, Phật giáo thường được gọi là tôn giáo của trí tuệ, như phương châm “Duy tuệ thị nghiệp” [Lấy trí tuệ làm sự nghiệp]. Mặc dù vậy, Phật giáo chủ trương trí tuệ và tâm đại bi phải luôn đi đôi với nhau. Do đó, nói cho đầy đủ, sự nghiệp của một vị Phật hay một vị Bồ Tát bao giờ cũng là trí tuệ và tâm đại bi.

.

9. Nếu ngay từ đầu đạo Phật đã thiết lập một con đường cho sự giác ngộ và giải thoát, vậy tại sao lại có khái niệm Tiểu thừa và Đại thừa?

Có ba giai đoạn trong lịch sử Phật giáo: Nguyên Thủy [Theravāda], Tiểu thừa [Hīnāyana] và Đại thừa [Mahāyāna]. Nguyên Thủy được tính từ khi Đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài diệt độ khoảng 100 năm. Và tiếp theo đó là sự phát triển các hệ thống tư tưởng của Tiểu thừa và Đại thừa. Nói chung, khái niệm Tiểu Thừa [chiếc xe nhỏ] và Đại thừa [chiếc xe lớn] được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử tư tưởng và triết học Phật giáo. Sự phát triển của hai truyền thống chính này được mở rộng thành 18 bộ phái theo lịch sử Phật giáo, tuy nhiên cả hai truyền thống này đều dựa trên các giáo lý căn bản như Bốn Chân Lý, Duyên Khởi và Vô Ngã. Mặc dù vậy, cả hai truyền thống này đều có những quan niệm và giải thích khác nhau về phương diện tu tập bản thân và các mối liên hệ xã hội. Lịch sử cho chúng ta biết rằng, khi xã hội ngày càng phát triển, thì ngôn ngữ, tư tưởng và cuộc sống thực tế cũng phát triển; đấy là lý do căn bản của sự phát sinh những kiến giải và quan niệm khác nhau của những người đệ tử Phật. Nhất là, khi Đức Phật đã diệt độ hàng trăm năm và những lời dạy chân chất của Ngài, theo thời gian, đã bị bao phủ lên một lớp áo luận lý theo những cách tân của xã hội. Ngày nay, người học Phật thường dùng khái niệm Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo phát triển để nói đến những khác biệt trong các hình thức Phật giáo.

.

10. Vậy Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo phát triển khác nhau như thế nào?

Có thể tóm tắt một số khác biệt căn bản như sau:

a/ Về ngôn ngữ, Phật giáo nguyên thủy dùng kinh tạng Pali [Nam Phạn] gồm các kinh Nikāya làm nền tảng tu tập; trong khi đó, Phật giáo phát triển sử dụng các kinh Đại thừa thuộc ngữ hệ Sanskrit [Bắc Phạn], Hán ngữ, và Tây Tạng ngữ [Luận tạng] làm nền tảng.

b/ Về tư tưởng, Phật giáo nguyên thủy lấy giáo lý Duyên Khởi [Paticcamūpāda] làm trọng tâm; trong khi Phật giáo phát triển hình thành thêm hệ tưởng Trung Quán [Mādhyamika] và Duy Thức [Yogācāra] trên nền tảng của Duyên Khởi; và, sau cùng là sự ra đời của Kim Cang thừa [Vajrayāna], còn gọi là Mật tông. Mặc dù vậy, tất cả hệ tư tưởng trên không hề mâu thuẫn nhau.

c/ Về pháp môn tu tập, Phật giáo nguyên thủy chuyên chú hành trì thiền định với các đề mục căn bản là Bốn Niệm Xứ [thân, thọ, tâm, pháp]; trong khi Phật giáo phát triển mở rộng các hình thức tu tập theo nhiều tông phái bao gồm Thiền, Tịnh độ, và Mật thừa. Mỗi tông phái lại có nhiều pháp môn ứng dụng khác nhau.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:02:46 CH @ 29/10/2019

con ngườitâm lýđức tintín ngưỡngtôn giáoPhật giáođạo Phậttu tậplàm ngườigiải thoát

Tôn giáo là gì?

Tôn giáo “religion“,xuất phát từ tiếng Latinh là“religio“, mang ýnghĩa “tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh” hay “bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh”.Từ nàyđôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó.

Tôn giáo hay giáo phái có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hoá, tính ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.

Tôn giáo cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng

Các hoạt động tôn giáobao gồm các nghi lễ, bài giảng, lễ kỷ niệm hay nhập hồn, lễ nhập đạo, dịch vụ tang lễ,thiền, cầu nguyện…Các tôn giáo có lịch sử được bảo tồnnhằm mục đích tạo ra ý nghĩa cho cuộc sống.Có khoảng 10.000 tôn giáo khác nhau trên toàn thế giới. Nhưng khoảng 84% dân số thế giới theo một trong năm nhóm tôn giáo lớn nhất, đó là Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo hoặc các dạng tôn giáo [tín ngưỡng] dân gian.

=>> 100 mẫu tượng Phật bằng đồng đẹp nhất

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề