Sự khác nhau giữa điểm du lịch và khu du lịch

1. Điểm du lịch là gì?

Điểm du lịch [Tourist destination hay tourist attraction] là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn , phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch.

Ảnh: Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch, phục vụ nhu cầu khách du lịch

Điểm đến có thể hiểu đơn giản là các địa điểm du lịch như các công viên chủ đề, những câu lạc bộ khách sạn và các làng du lịch. Những nơi này có thể là các điểm đến cho một chuyến đi trong ngày, một kỳ nghỉ ngắn hoặc dài ngày.

Ở một khía cạnh khác, thì các quốc gia, các lục địa cũng được xem xét và chào bán như là các điểm đến du lịch [Uỷ ban lữ hành Châu âu [ETC]] và hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương [PATA] có trách nhiệm tiếp thị cho Châu âu và khu vực Thái Bình Dương như là những điểm đến du lịch.

Như vậy, các điểm đến du lịch cũng được coi là một dạng thức sản phẩm thị trường du lịch đặc biệt theo tiếp cận quản trị kinh doanh và marketing du lịch.

Nhìn chung có các điểm đến sau:

– Các đô thị lớn, các trung tâm

– Các trung tâm truyền thống được triển khai theo mục tiêu du lịch [các trung tâm tour du lịch cũng là dạng thức điểm đến này]

– Các khu vực nghỉ ngơi được xây dựng có chủ đích du lịch.

– Các quốc gia [Việt Nam, Thái Lan….]

– Nhóm các quốc gia [ASEAN, EU…] và lục địa [á, âu, mỹ].

Có thể phân biệt hai loại điểm đến là điểm đến cuối cùng và điểm đến trung gian. Từ góc độ địa lý, điểm đến du lịch trở thành đối tượng nghiên cứu gắn với sự chuyển động của dòng du khách cũng như ý nghĩa và sự tác động của dòng du khách đối với điểm đến. Đồng thời điểm đến là tập hợp tất cả các khía cạnh của du lịch trong một cơ cấu thống nhất bao gồm: Cầu, giao thông vận tải, cung và hoạt động marketing.

Như vậy, khái niệm Điểm du lịch mới chỉ nói đến một phạm vi hẹp của nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn phục vụ cho khách du lịch mà chưa chỉ rõ được quy mô, mức độ, việc lưu lại của khách du lịch, điều kiện tiếp cận, sản phẩm du lịch, ranh giới hành chính để quản lý, cũng như sự nhận diện về hình ảnh của điểm đến du lịch.

{ Tháng Một 24, 2010 @ 2:46 sáng } · { Bài 1, Tổng quan du lịch }
{ Comments [1] }

1.1 Các khái niệm cơ bản về du lịch

1.1.1 Du lịch

Du 1ịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông phát triển, nền kinh tế phát triển đời sống con người được nâng lên thì nhu cầu phát triển du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế mỗi nước, con người đang nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình hàng năm cho du lịch; trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về Du lịch chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sông của con người càng được nâng cao.

Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch cơ cấu chi tiêu của con người đang tạo nên thị trường du lịch rộng lớn. không còn ở phạm vi một ngành kinh tế hay ở̉ một nước. Ngày nay những máy bay siêu âm loại lớn với đầy đủ tiện nghi, những tàu thủy có đủ điều kiện cho con người sống gần với biển cả, những đoàn xe lửa liên quốc gia, những xe ca chở khách kiểu mới đã tạo cho con người sự thoải mái trong việc di chuyển trên các tuyến đường du lịch. Bên cạnh có những Trung tâm Du lịch được hình thành với những hệ thống khách sạc tế đầy đủ tiện nghi, những cửa hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng lưu niệm với chất lượng cao, những sản phẩm mang tính đặc sản của một vùng, một địa phương theo thị hiếu quốc tế. Tuy vậy người đi du lịch không chỉ thỏa mãn những nhu cầu về vật chất mà còn quan tâm đến cả nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải tạo các danh lam thắng cảnh, trùng tu và nâng cao tính thẩm mỹ của nhưng công trình văn hóa: xây dựng các di tích lịch sử… để đáp ứng các yêucầu của khách du lịch.

Rõ ràng du tịch đã trở thành một ngành kinh doanh tổng hợp. Hoạt động kinh doanh du lịch phát triền kéo theo những hoạt động sản xuất kinh doanh khác phát triển theo, hàng hóa sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho các dịch vụ du lịch mà còn bán cho khách với Trung tâm du lịch đã trở thành những Trung tâm ngoại thương, xuất khẩu tại chỗ. Hoạt động kinh doanh Du lịch đã góp phần vào mở mang các ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động, chỉ tính riêng lưu lượng lao động trong ngành Du lịch nhiều nơi đã chiếm 50% dân số, nếu tính cả lao động dịch vụ thương mại ở̉ các Trung tâm du lịch thì tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.

Một yêu cầu khách quan khác là hoạt động Du lịch đã làm cho đời sống văn hóa của nhân dân ở các khu du lịch được nâng cao. Khách du lịch và cả người địa phương đều mang trong lòng ý niệm hành hương, một cảm xúc tốt đẹp.

Tóm lại, nếu nói Du lịch là sự di chuyển của một cá nhân hay một tập thể từ vùng này đến vùng khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần nhằm tạo cho cuộc sống tươi đẹp thêm thì phục vụ du lịch lại là một guồng máy sản xuất và cung ứng các dịch vụ từ công tác tuyên truyền quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến việc phục vụ ăn, ngủ, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội… đòi hỏi được tiến hành một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu cầu ngày một được cải tiến. nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch.

Đối với những người đi du lịch, điều mà họ quan tâm đầu tiên là cảm tưởng mới mà họ nhận được ở nơi họ đến du lịch, có thể nói ngành Du lịch là ngành xuất khẩu các cảm tưởng. Do vậy các dịch vụ du lịch phải làm sao tạo được cảm tưởng mới cho khách, gợi cho họ những cảm tưởng đẹp. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc có những cái đẹp đặc trưng khác nhau, ở nước này dân tộc này muốn tìm hiểu cái đẹp ở nước khác, dân tộc khác. Vì vậy trong các dịch vụ du lịch phải mang sắc thái của dân tộc, trong đó tính dân tộc độc đáo tiêu biểu phải được chọn lọc, nâng cao tạo được cảm xúc tốt đẹp cho khách. Đây là một yêu cầu lớn của những người làm công tác du lịch. Chính vì vậy mà Du lịch có thể xem như một dạng nghỉ ngơi tích cực của con người, đồng thời nó là một thành phần không thể thiếu được trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người trong thời đại hiện nay.

Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường hiểu là một cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ nhũtng năm 30 của thế kỷ này có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt khác nhau của hiện tượng Du lịch để đưa ra 1 định nghĩa chính xác. Nhưng nhìn chung việc định nghĩa Du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì :

1] Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt khi nói đến Du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác [cách xa nơi ở thường xuyên của họ] để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ… Mặt khác Du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan…. Tất cả những hoạt động nêu trên tạo nên ngành kinh doanh Du lịch.

2] Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome [Ý] để thảo luận về Du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau [Khách du lịch là người công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên]. Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở nước ngoài quá 1 năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách Du lịch” phải xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ sở lý luận cũng như vận dụng vào thực té sản xuất kinh doanh của Ngành.

Ngày nay lên cạnh việc đi du lịch ở nước ngòai, con người cũng đặt ra một nhu cầu du lịch trong nước không kém phần phong phú và đa dạng. Như vậy khái niệm chung về Du lịch cần được nghiên cứu xuất phát từ đối tượng hoạt động của du lịch, đó là người du khách.

Theo luật Du lịch Việt Nam: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.

1.1.2 Khách du lịch

Đây là khái niệm có nhiều quan niệm đưa ra. Khách du lịch là đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn viên, là đối tượng của các đơn vi phục vụ và kinh doanh du lich.

Nói đến du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể thao.v.v… Đối với hoạt động du lịch, con người với vai trò là một du khách có nhu cầu du lịch, rời khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lich. Điều này có nghĩa để trở thành một khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau:

– Có thời gian rỗi

– Có khả năng thanh toán

– Có nhu cầu cần đươc thoã mãn.

Nhà kinh tế học người Ao, Lozep Stander định nghĩa: Khách du lịch là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.

Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ quan phiến diện của mình về du khách như sau: là nhũng kẻ nực cười, ngốc nghếch ít học, những nhà giàu có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi trường.

Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc tổ chức tại Rôma [Ý] để thảo luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau: Khách du lịch là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước ngoài ở quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc tìm nơi lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này sang làm việc nước khác.

Theo luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.

1.1.1 Tài nguyên du lịch

Theo luật Du lịch Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử, văn hoá, công trình lao động sáng tạo của ocn người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch

1.1.2 Điểm và khu du lịch

Đối với quốc gia, vùng, miền và các nhà làm du lịch thì điểm và khu du lịch được xem là nguồn lực, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần cạnh tranh, khai thác nguồn khách và đem lại nguồn thu cho mình. Tuy nhiên giữa điểm du lịch và khu du lịch có những điểm khác biệt cần phải nhận thức giúp các nhà quản l‎ý và các doanh nghiệp du lịch có chiến lược xây dựng, khai thác, phát triển, marketing phù hợp. Vì vậy chúng ta có thể phân biệt điểm du lịch và khu du lịch dựa trên các cơ sở sau:

v Giống nhau:

– Gắn liền với nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn

– Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch

– Tạo điều kiện công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương

– Đem lại nguồn thu và quảng bá cho cho đất nước và cộng đồng địa phương.

v Khác nhau:

TTCơ sở phân biệtĐiểm du lịchKhu du lịch
1Khái niệmĐiểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. [Điều 4Luật Du lịch]Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường. [Điều 4Luật Du lịch]
2Phân loạtCó 2 loại:

– Điểm du lịch quốc gia

– Điểm du lịch địa phương

Có 2 loại:

– Khu du lịch quốc gia

– Khu du lịch địa phương

3Sự đáp ứng nhu cầu của khách du lịchĐáp ứng nhu cầu tham quan của khách du lịch là chủ yếuĐáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch
4Quy mô và sức chứa du khách tối thiểu– Đối với điểm du lịch quốc gia: Bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.

– Đối với điểm du lịch địa phương: Bảo đảm phục vụ ít nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.

[Điều 24Luật Du lịch]

– Đối với khu du lịch quốc gia: Có diện tích tối thiểu một nghìn héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất một triệu lượt khách du lịch một năm.

– Đối với khu du lịch địa phương: Có diện tích tối thiểu hai trăm héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm.

[Điều 23Luật Du lịch]

Kinh doanh tại điểm và khu du lịch bao gồm nhiều nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này xuất phát từ nhu cầu và đỏi hỏi chính đáng từ khách du lịch. Các sản phẩm, dịch vụ tại điểm và khu du lịch càng phong phú, độc đáo, chất lượng, giá cả hợp l‎ý thì càng chiếm được cảm tình, tiêu dùng và quay lại của du khách. Điều này đỏi hỏi những nhà quản l‎ý, người kinh doanh tại điểm, khu du lịch cần có chính sách về sản phẩm cũng như giá hợp l‎ý để “kích thích” khả năng tiêu dùng của khách du lịch.

Nhìn chung các lĩnh vực kinh doanh tại điểm và khu du lịch gắn liền với việc đầu tư, bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp, phát triển và bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng bền vững.

1.1.3 Tuyến du lịch

Đây là khái niệm liên quan đến kinh doanh du lịch lữ hành. Từ những điểm, khu du lịch có sẵn tại các vùng, địa phương, quốc gia khác nhau khách du lịch hoặc thông qua các công ty lữ hành vạch ra cho mình những tuyến du lịch nhăm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, và hiểu biết của mình. Có thể chia tuyến du lịch thành:

– Tuyến du lịch quốc tế

– Tuyến du lịch nội địa

– Tuyến du lịch ngắn ngày

– Tuyến du lịch dài ngày

– Tuyến du lịch văn hoá

– Tuyến du lịch danh lam thắng cảnh

….

Tuy có sự phân chia nhưng nhìn chung trong các tuyến du lịch đều có sự thống nhất và xen kẽ giữa các yếu tố. Ví dụ khi tham quan tuyến du lịch: Vũng Tàu – TP Hồ Chí Minh – Cần Thơ [3 ngày 2 đêm], là một tuyến du lịch ngắn ngày, du khách vừa tham quan vừa tham quan các di tích lịch sử văn hoá, vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa vui chơi giải trí…

Theo Luật Du lịch Việt Nam: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không

1.1.4 Xúc tiến du lịch

Theo Luật Du lịch Việt Nam: Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.

1.1.5 Du lịch bền vững

Theo Luật Du lịch Việt Nam:Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai.

1.2 Lịch sử hình thành, phát triển du lịch thế giới và Việt Nam

1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới

Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật sản xuất, ngành du lịch được hình thành sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Lịch sử du lịch có nhiều bước thăng trầm, cả sự thành công lẫn thất bại. Nhìn chung, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp đề có ảnh hưởng tích cực đến du lịch. Chiến tranh, thiên tai, đói kém… là những lí do cơ bản kìm hãm sự phát triển của du lịch. Những hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển du lịch trong quá khứ sẽ rất bổ ích cho người là du lịch hôm nay. Lịch sử sẽ cung cấp nhiều bài học quý báu cho các hoạt động và chính sách du lịch hiện tại.

Về cơ bản, các nhà nghiên cứu về lịch sử du lịch cho rằng sự hình thành và phát triển ngành du lịch từ khi xã hội loài người bước vào quá trình phân công lao động, khi nghề thủ công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp, khi xã hội bắt đầu có sự phân công giai cấp. Khả năng tích lũy lương thực là một yếu tố rất quan trọng cho việc tạo ra nhu cầu du lịch theo nghĩa sơ đẳng nhất.

Thời cổ đại:

Trong giai đoạn này có những phát minh quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc đi lại. Đó là phát minh ra thuyền buồm của người Ai Cập vào khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước công lịch. Cũng thời gian này súc vật được thuần hóa không những là nguồn thức ăn dự trữ mà còn được sử dụng để chuyên chở lương thực, vũ khí và chính con người. Phát minh ra bánh xe của người Sumeri vào khoảng 3500 t.CN là một sự kiện có ý nghĩa vô cúng to lớn đối với việc đi lại của loài người.

Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, Ai cập là một điểm thu hút khách du lịch trên thế giới. Họ đến để chiêm ngưỡng các kim tự tháp và các kỳ quan khác của đất nước văn minh, thịnh vượng này. Ngoài các nhà hoạt động chính trị, các thương gia, giới quý tộc thường xuyên phải đi lại trong nước và ra nước ngoài, còn hầu hết những người có nhu cầu đi lại là những người tín ngưỡng sùng bái tôn giáo. Trong những ngày lễ, hàng ngàn người đã hành hương đến các nhà thờ, tu viện… để cầu nguyện và cúng bái. Cuộc hành trình của họ kéo dài từ ngày này sang ngày khác, có khi tới hàng tháng. Trong thời gian này, khi chưa có hoạt động kinh doanh ăn, nghỉ, thì những người này thường phải ăn nghỉ nhờ những người quen. Dần dần dọc theo những con đường dẫn đến các khu Thánh địa, các nhà trọ, quán ăn đã được xây dựng để phục vụ khách bộ hành ăn nghỉ và bắt đầu hình thành hoạt động kinh doanh trong du lịch tôn giáo.

Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy lạp đã phát triển cường thịnh, giai cấp chủ nô đã đi đến các vùng đất ở Địa Trung Hải để thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh và nhằm mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh ở một số nguồn chất khoáng. Phương tiện đi lại chủ yếu là cưỡi la, đi xe bò, người giàu thì đi bằng xe ngựa, bằng kiệu. Du lịch công vụ cũng rất phát triển trong thời kỳ Hy lạp cổ đại, các chính khách, thương gia thường xuyên phải đi để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt. Họ được cung cấp đầy đủ các dịch vụ về ăn uống, nghỉ ngơi, thậm chí có cả người dẫn đường, bào vệ.

Năm 776 trước công nguyên, đại hội thể thao Olimpic đầu tiên tổ chức ở Hy lạp thu hút nhiều người tham dự. Xung quanh những khu vực thi đấu người ta xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn nghỉ, vui chơi cho các vận động viên và khán giả. Và loại hình du lịch thể thao đã xuất hiện ở bán đảo này.

Các quan lại giàu có người châu Á lại thích đi du lịch bằng kiệu hoa trang trí lộng lẫy có cửa chớp hoặc rèn che bao quanh, giá nâng được đặt trên vai của các phu khiêng kiệu. Bên cạnh đó là hàng đàn lạc đà đưa các du khách đi theo dọc con đường tơ lụa của Trung Quốc, nối dài từ Bagdad tới AdenSamarkand và Timbukfu. Kinh coran đề nghị các chuyến đi nên bắt đầu vào thứ 6, sau buổi cầu kinh trưa nhưng phần lớn các đoàn lữ hành đều đi từ sáng sớm đến chiều tối để có thể đi được 25 dặm một ngày. Họ nghỉ trưa ở các trạm và ngủ đêm trong các căn lều tự dựng bên đường hay các trạm nghỉ.

Trong số những chuyến đi biển đầu tiên, những chuyến đi của cư dân vùng Đông Nam Á đến các khu vực ở châu Đại Dương thật đáng ngạc nhiên. Bằng thuền độc mộc nhỏ, dài chừng 3 – 4m, họ đã vượt hàng trăm km đến tận các đảo Marquessas, Toumotu, Society…

Thời Trung Cổ:

Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại trong đó có đế quốc La Mã từ thế kỷ thứ IV và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt vong [476] đã làm cho hoạt động du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc. Nhiều kiệt tác kiến trúc, nghệ thuật, xã hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Phương tiện đi lại trên bộ duy nhất là xe ngựa và các xe ngựa kéo. Cho tới tận thế kỷ thứ X, du lịch không còn an toàn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến tranh liên miên, biên giới biến động làm cho việc đi lại trở nên khó khăn. Đường xá trở thành các rảnh bẩn thỉu và đầy ngập bọn trộm cướp. Vì vậy những chuyến đi du lịch cũng ít ỏi và khá mạo hiểm.

Thời kỳ này, đạo Thiên Chúa đã trở thành một lực lượng lớn mạnh ở châu Au. Nó hậu thuẫn mạnh mẽ cho các cuộc chiến tranh nên đã thay thế và trở thành tư tưởng thống soái. Du lịch tôn giáo là loại hình chủ yếu trong giai đoạn này. Những cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành hương về thánh địa, nhà thờ diễn ra một cách rầm rộ. Các quán trọ hai bên đường mọc lên để phục vụ mọi người không phải vì mục đích kinh tế mà đa phần chỉ như dấu hiệu về sự đóng góp của con chiên cho sự sáng danh Đức Chúa Trời. Xuất hiện những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, cách hành lễ…

Thời kỳ này dã xuất hiện những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của loài người với những tìm tòi khám phá mới đã phá vỡ tầm hiểu biết hạn hẹp của các cộng đồng Trung cổ và khơi dậy tính hiếu động, tò mò của con người. Con người đã có những chuyến đi dài ngày nhằm mở rộng “cánh cửa nhận thức” để được khám phá những vùng đất mới, những nền văn minh nhân loại.

Năm1275, một thanh niên tên là Marco Polo theo cha và chú sang Trung Quốc trong một chuyến buôn. Tại đây, Marco Polo được gặp Hốt Tất Liệt. Bị cuốn hút bởi uy thế của Hoàng đế và một thế giới bí ẩn, khác lạ ở phương Đông, ông đã ở lại đây 17 năm. Khi về nước ông đã viết cuốn: “Marco Polo phiêu lưu kí” kể về những gì mắt thấy tai nghe ở xứ Trung Hoa kì bí. Có thể coi đây là một trong những tài liệu hướng dẫn du lịch đầu tiên trên thế giới.

Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI những hiểu biết về địa lý, thiên văn, hải dương và kỷ thuật đi biển đã giúp con người có những phát kiến địa lý lớn. Từ năm 1492 đến 1504, Chistofe Colombo đã tiến hành bốn cuộc hành trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này gọi là Châu Mỹ. Những chuyến đi này không phải vì mục đích du lịch, nhưng trên ý nghĩa nhất định, đã mở hướng cho hoạt động lữ hành quốc tế trên biển.

Năm 1548, Vasco de Gama đã cùng thủy thủ đoàn đi dọc theo bờ biển Tây Phi xuống phía Nam. Khi gần đến mũi cực Nam châu Phi, đoàn thuyền của ông bị bão thổi dạt sang bờ đông của Nam Mỹ. Lúc đó ông không hề biết rằng đây là một lục địa mới. Ông cho thuyền quay về phía Đông hướng tới Hảo Vọng Giác. Vượt qua nhiều ngày lênh đênh trên biển đoàn thuyền của ông đã đến được An Độ, Thành công của ông đã mở ra một chân trời mói trong sự thông thương buôn bán Đông Tây bằng đường biển.

Thời Cân Đại

Cuộc cách mạng tư sản, bắt đầu bằng cuộc cách mạng ở Netherland [1564 – 1609], đến cách mạng tư sản Anh [1642 – 1660], cách mạng tư sản Mỹ [1776 – 1783], cách mạng tư sản Pháp [1776 – 1883]… đã mở ra cho con người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản.

Vào năm 1784, James Watt đã chế tạo ra động cơ hơi nước liên tục đầu tiên. Phát minh này châm ngòi nổ cho cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, mở ra chân trời mới cho ngành vận chuyển và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triể du lịch loài người.

Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra chiếc ôtô đầu tiên. Do tính tiện ích của nó, ngay năm sau, công nghiệp ôtô đã ra đời đã góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách đi du lịch.

Về phương tiện thông tin liên lạc, thời kì này con người đã phát minh ra các phương tiện truyền tin không gian nhu điện tín [1876], điện thoại [1884], radio [1895]…

Nhu cầu tích tụ tư bản thúc đẩy giai cấp tư sản cho xây dựng mạng lưới giao thông lớn cùng với các phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại và mở rộng các dịch vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Những cơ sở hạ tầng đó về khách quan cũng tạo thuận lợi cho các tuyến lữ hành xuyên quốc gia. Nếu trước kia, người ta chú ý tới các kỳ quan thế giới như kim tự tháp [Ai Cập], vườn treo Babilon, đền thờ Nữ thần Artemis ở Ephese.v.v.. thì nay đã mở ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng.v.v.. Du lịch quốc tế có xu hướng tăng trong thế kỷ XIII. Đó là chuyến du lịch của các sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong 2-3 năm trở về áp dụng trong các Công ty, xí nghiệp của mình.

Cuộc hành trình du lịch tập thể đầu tiên ở Anh do Thomas Cook tổ chức năm 1841 cho 570 người đi bằng tàu hỏa từ Leicester đến dự hội nghị của những người chống nghiện rượu tại Laoughborough, cách 12 dặm đánh dấu một bước ngoặc mới trong ngành kinh doanh du lịch. Một năm sau ông thành lập Văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh đi du lịch trong nước và ra nước ngoài. Ông bắt đầu có những chuyến du hành trong phạm vi hẹp ở nước Anh phục vụ cho học sinh, phụ huynh, các cặp vợ chồng.… tới những nơ mà họ chưa có dịp tới. Nắn bắt nhu cầu muốn đi nghỉ hè và tham quan du lịch ở pháp, năm 1854, hãng Thomas Cook và các con đã bắt đầu tổ chức các tuyến du lịch sang châu Au.

Thành công của Thomas Cook đạt được là do khả năng thông hiểu nhu cầu về du lịch ở thời đại ông. Ông nắm bắt được những đòi hỏi, mong muốn và những yếu tố thúc đẩy du lịch để triển khai trong các tour của mình.

Năm 1876, Thomas Cook cho ra mắt một loại hoá đơn đặc biệt gọi là “Phiếu thanh toán”, tiền thân của sec du lịch hiện nay. Nhờ có hoá đơn này du khách có thể thanh toán tại hàng trăm khách sạn trong danh mục của Cook.

Công ty lữ hành Thomas Cook trong thời gian 1850 tới 1900 là điềm báo cho một thời đại du lịch thựch sự dành cho số đông dân chúng. Và Thomas Cook đã được nhân loại suy tôn là ông tổ của ngành lữ hành.

Thời kỳ hiện đại:

Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật trong ngành giao thông vận tải đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển du lịch. Số lượng người đi đông hơn, nhanh hơn, tiết kiệm được thời gian nên hành trình xa hơn, đến nhiều nơi hơn.

Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, du lịch quốc tế đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nhưng trong những năm chiến tranh, du lịch quốc tế hầu như tê liệt.

Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới các khu du lịch nghỉ biển lại được phục hồi và phát triển nhanh chóng, đặc biệt là Pháp, Ytalia, Anh, HyLap, Đức… Ở những nước này đã thành lập cơ quan Nhà nước về du lịch, một vài nước đã thành lập Bộ du lịch. Và năm 1925 thì “Liên minh Quốc tế của các tổ chức du lịch được hình thành lập”.

Trong chiến tranh thế giới thứ II, các hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế hầu như bị đình tuệ. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch phần bị phá huỷ, phần thì biến thành cơ sở phục vụ chiến tranh.

Trong những năm đầu sau chiến tranh, du lịch quốc tế được phục hồi rất chậm, bởi vì lúc này các nước bị tàn phá trong chiến tranh đang bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh tế đất nước.

Trong ba thập kỷ [từ những năm 50 đến những năm 80] sau chiến tranh thế giới thế II, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, nó thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển thật sự . Sự tăng trưởng trung bình năm của du lịch quốc tế thập kỷ 1950 – 1960 khoảng 10,98%, 1960 –1970 là 8,3%, thập kỷ 1970 – 1980 là 6%, thập kỷ 1980 – 1990 khoảng 5%, trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng lại nâng lên 7,5 – 9%.

Cùng với sự tăng trưởng về số lượng, sự thay đổi về cơ cấu của khách du lịch, cùng với sự gia tăng của tổng doanh thu trong ngành du lịch, đã ra đời và phát triển nhiều loại hình du lịch. Vận chuyển khách bằng đường bộ và đường không đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong ngành du lịch quốc tế. Các Công ty khách sạn, lữ hành, Công tuy môi giới… lần lượt ra đời đã làm nảy sinh cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch quốc tế.

Kể từ khi hình thành và thoát thai để trở thành một ngành kinh tế độc lập, có chổ đứng trong thương trường, ngành du lịch đã có những biến đổi thăng trầm. Người ta ví ngành du lịch quốc tế như là “một con ngựa đua đường trường, có lúc chạy nhanh, lúc mỏi mệt thì nghỉ lại để rồi dồn sức tạo sự đột phá mang theo sứ mệnh chuyển cái Đẹp tới cho con người”.

Xu hướng phát triển của du lịch thế giới

Ngày nay, mặc dù một sồ khu vực trên thế giới còn những bất đồng về chính trị, sắc tộc và tệ nạn khủng bố song xu hướng chung của nhân loại là hoà bình, hữu nghị hợp tác và phát triển. Các quốc gia tranh thủ thời cơ để mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Nhiều hiệp hội, tổ chức đã ra đời như ASEM, ASIAN, OPEC, EU v.v… Các quốc gia đã có sự tìm hiểu lẫn nhau về văn hoá, xã hội để mở ra hướng đầu tư thích hợp cho mình.

Du lịch có xu hướng gia tăng theo số lượng: số lương khách, thành phần khách, loại hình, sản phẩm du lịch các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Theo ước tính thì hiện nay có hơn 5% dân cư thế giới tham gia vào du lịch quốc tế. Những yếu tố được coi là nguyên nhân chính ảnh hưởng tới sự tăng trưởng này là mức sống của người dân, giá cả các dịch vụ hạ hơn trong khi mức thu nhập của họ tăng dần.

Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ cấu thành phần du khách có nhiều thay đổi hay còn gọi là xã hội hóa thành phần du khách. Du lịch không còn là đặc quyền của tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội nữa. Xu thế quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến ở nhiều nước. Lý do của hiện tượng này cũng la mức sống của người dân được nâng lên cao, giá cả dịch vụ hàng hoá không đắt, các phương tiện giao thông vận tải, lưu trú phong phú và thuận tiện. Nhưng điều quan trọng là chính sách của địa phương có điểm du lịch. Ở nhiều nơi, nhà nước có chính sách khuyến khích người dân đi du lịch do thấy được ý nghĩa của hiện tượng này đối với sức khoẻ cộng đồng.

Nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ngành công nghiệp ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay siêu tốc…và sự bùng nổ của công nghệ thông tin mà địa bàn du lich ngày càng mở rộng, cự li ngày càng dài ra. Với vị trí đặc biệt của mình, sư phát triển cao về lực lượng sản xuất và có nhiều di tích lịch sử, văn hoá mà Châu Au có ngành du lịch quốc tế phát triển sớm mạnh và là châu lục có nhiều người đi và đến du lịch nhất. Hiện nay du lịch quốc tế đang có xu hướng phát triển nhanh ở châu Á, châu Phi, Châu Đại Dương, tuy nhiên khu vực Trung Cận Đông và châu Phi mới chỉ ở mức triển vọng vì hiện tại đang có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị.

Căn cứ vào số khách nước ngoài tới du lịch và số người đi du lịch ra nước ngoài của từng nước, số ngoại tệ thu được của du khách cùng cán câu thanh toán du lịch, có thể phân ra 3 loại nước khác nhau trong sự phát triển du lịch quốc tế:

  1. Các nước chủ yếu là du lịch bị động: Hoa kỳ, Nhật Bản, Anh, Uc, Balan, CH Séc, Slovakia, NiuDilan.
  2. Các nước phát triển du lịch chủ động: Tây Ban Nha, Ý, Thuỵ Sĩ, Bồ Đào Nha, Ai Cập.
  3. Các nước có sự phát triển cân bằng du lịch quốc tế chủ động, bị động: Pháp, Hunggary, Ixraen, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nước Nam Mỹ và các nước châu Á.

Do đời sống ngày càng cải thiện cải thiện, nhu cầu tích luỹ tăng không ngừng nên trong các chuyến du lịch, khả năng chi trả của con người là rất cao. Nhu cầu mà con người hướng tới, bên cạnh nhu cầu ăn uống là phục hồi, duy trì sức khỏe, vui chơi giải trí, tìm hiểu, khám phá thế gới, tìm hiểu, khai thác thị trường và một nhu cầu đặc biệt khác là bay vào vũ trụ.

Trên phạm vi thế giới, số khách du lịch lớn nhất là khách đi nghỉ ở bờ biển. Trong tương lai, tỷ lệ du lịch biển sẽ giảm đi do phát triển của du lịch trên núi.Một đặc điểm nữa có ý nghĩa lớn đối với phân bố là tính chất giải trí là tính chất giải trí đối lập, tức người đi du lịch thường tìm đến môi trường đối lập với nơi họ sinh sống [Vùng núi – Vùng biển; Thành phố – Nông thôn…].

Các Tổ chức quốc tế về du lịch

v Tổ chức du lịch thế giới [World Tourism Organisation – WTO; Organisation Mondiale du Tourism – OLVLT]:

Là 1 tổ chức quốc tế đứng đầu và được tín nhiệm rộng rãi nhất về lĩnh vực du lịch và lữ hành. Tổ chức này gồm 139 thành viên thuộc 139 quốc gia và hơn 350 thành viên chi nhánh đại diện cho chính phủ quốc gia, hiệp hội du lịch, các viện giáo dục, các công ty tư nhân gồm hàng không, khách sạn và các nhà tổ chức tour.

Trụ sở của WTO đặt tại Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Ngôn ngữ chính thức của WTO là tiếng Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. WTO là một tổ chức liên chính phủ về xúc tiến và phát triển du lịch do Liên hiệp quốc giao phó. Thông qua du lịch, mục tiêu của WTO là kích thích phát triển kinh tế và tạo ra công ăn việc làm, đẩy mạnh gìn giữ và bảo vệ môi trường và di sản cũng như tăng cường thúc đẩy hoà bình và hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới, tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo.

Ban đầu WTO được thành lập vào năm 1 925 tại Hague với tên gọi là Liên minh quốc tế các tổ chức quảng bá du lịch chính thức. Sau thế chiến thứ 2, nó được chuyển đến Geneva và đổi tên là Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch chính thức [International Union for Official Tourism Organisations] viết tắt là IUOTO.

Tháng 5 năm 1975 cuộc họp tòan thể đầu tiên của tổ chức này diễn ra tại Madrid.

Năm 1976, WTO trở thành tổ chức điều hành của chương trình phát triển Liên hiệp quốc [UNDP]

Năm 1977 một hiệp định hợp tác chính thức đượcký kết với Liên hiệp quốc. Ngày 17 tháng 9 năm 1981, tại Hội nghị Đại hội đồng của WTO lần thứ 4 tại Ý, Việt Nam đã được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức này.

WTO có nhiệm vụ chính là truyền tải sự hiểu biết về du lịch đến các nước đang phát triển. Cụ thể hơn là WTO cung cấp nhiều kinh nghiệm về du lịch cho những mục tiêu phát triển của các quốc gia trên thế giới.

WTO nổi tiếng về thống kê và nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu là một trong những đóng góp quan trọng trong khuôn khổ ngành du lịch; phân chia tác động của du lịch về kinh tế quốc gia, dự đóan trước, khảo sát những xu hướng và công bố kết quả sẵn có.

Mục tiêu khác của WTO là phát triển nguồn nhân lực. WTO tạo ra tiêu chuẩn cho ngành giáo dục du lịch. WTO tổ chức những cuộc hội thảo, những khóa học từ xa và những buổi ngọai khóa cho các nhân viên du lịch thuộc các nước thành viên.

WTO cũng nổ lực tạo điều kiện thuận lợi cho ngành lữ hành thế giới thông qua việc lọai bỏ hoặc giảm các phương sách cũng như tiêu chuẩn hóa các yêu cầu về hộ chiếu, thị thực v.v…

WTO củng cố chất lượng du lịch thông qua sự mở rộng tự do mua bán, tiếp cận, thăm dò khách du lịch bị tàn tật, an tòan, an ninh và những tiêu chuẩn về kỹ thuật.

v Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới [World Travel and Tourism Council – WTTC]

Là một liên minh tòan cầu gồm 100 viên chức đứng đầu ở tất cả các khu vực ngành công nghiệp : lưu trú, ăn uống, du lịch biển, giải trí, vận chuyển và lữ hành.

WTTC thành lập năm 1990 do một Hội đồng gồm 15 thành viên dẫn dắt, triệu tập 1 năm 2 lần va 2báo cáo cho cuộc họp hàng năm. Những họat động hàng ngày được điều hành bởi chủ tịch và nhóm nhân viên đặt tại Anh. Mục tiêu đó là làm việc với các chính phủ để tạo cho du lịch một chiến lược phát triển kinh tế và ưu tiên công ăn việc làm nhằm tiến đến mở cửa và cạnh tranh thị trường, xoá bỏ những rào cản phát triển để công nhận tiềm năng kinh tế của ngành du lịch và khả năng phát sinh công việc; phát triển nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật, kết nối cơ sở hạ tầng với nhu cầu khách hàng.

v Hiệp hội khách sạn quốc tế [International hotel Association – LHA]

Được thành lập năm 1969 thay thế cho hiệp hội các nhà kinh doanh khách sạn và Liên hiệp khách sạn quốc tế.

Mục tiêu hành động của một tổ chức quốc tế về ngành công nghiệp nhà hàng và khách sạn nói chung thực thi các chức năng của một hiệp hội thương mại ở mức độ quốc tế. Hiệp hội có 4.300 hội viên ở̉ 145 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trụ sở của Hiệp hội đặt tại Paris – thủ đô Cộng hoà Pháp.

v Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế [International Air Transport Assoeiation – IATA]:

Là một tổ chức toàn cầu về hàng không quốc tế. Chức năng chính của IATA là tạo sự an toàn trong việc vận chuyển hành khách và hàng hoá từ mọi

nơi ở̉ mạng lưới hàng không thế giới đến bất cứ nơi khác bằng sự kết nối cáctuyến đường bay.

Nhiệm vụ của IATA là đại diện và phục vụ cho ngành công nghiệp hàng không thế giới : phục vụ 4 nhóm theo sự vận hành suôn sẻ của hệ thống vận chuyển hàng không thế giới: hành không; công chúng; các chính quyền; nhóm thứ 3 như nhà cung cấp, nhân viên du lịch và nhân viên vận chuyển hàng hoá.

IATA hoạt động mật thiết với tổ chức hàng không dân dụng quốc tế. Văn phòng chính của IATA đặt tại Montreal, Canada. Cơ quan điều hành đặt ở Geneva, Thuỵ Sỹ̃, ngoài ra còn có các văn phòng đại diện cho các khu vực trên thế giới.

Các Tổ chức trong khu vực:

v Hiệp hội Du lịch châu Á – Thái Bình Dương [Pacific Asia Travel Association – PATA]:

Đại diện cho những quốc gia ở̉ Thái Bình Dương và Châu Á hợp nhất lại để đạt được mục tiêu chung, đó là, vượt trội về phát triển du lịch và lữ hành trong khu vực rộng lớn này. Công việc của Hiệ̣p hội là phát triển du lịch thông qua các chương trình nghiên cứu, phát triển, giáo dục và tiếp thị. PATA đã hòan thành xuất sắc và tạo được tiếng vang trong số các tổ chức thế giới.

PATA được thành lập năm 1951 tại Hawaii với tên gọi là Hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương [Pacific Area Travel Association], tổ chức này có mục đích thúc đẩy sự phát triển hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa các nước, các cơ quan du lịch của các nước trong khu vực.

Các thành viên PATA bao gồm các chính quyền, các công ty hàng không, hàng hải, các khách sạn, các công ty du lịch

Là 1 thành viên của PATA, chi hội PATA Việt Nam được thành lập ngày 04/01/1994

Hàng năm PATA tổ chứ chội nghị thường niên lần lượt tại các nước thành viên nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ hợp tác về du lịch giữa các nước trong khu vực.

Cơ quan quyền lực tối cao của PATA là hội nghị thường niên, Ủy ban điều hành, Ủy ban thường trực và Ban thư ký

Hội nghị thường niên của PATA xem xét các họat động của Hội trong năm, có thẩm quyền sửa đổi Điều lệ, nguyên tắc họat động và bộ máy tổ chức thông qua các vấn đề ngân sách, xác định địa điểm của kỳ họp kế tiếp và thông qua dự thảo nghị quyết của Hội nghị.

Tạp chí PATA, bản tin PATA là những ấn phẩm du lịch có uy tín trên thế giới nhờ vào những thông tin rất thời sự và tin cậy. PATA còn tổ chức hội chợ du lịch Thái Bình Dương nhằm hỗ trợ cho việc xúc tiến hợp tác kinh doanh du lịch.

v Hiệp hội Du lịch Châu Âu [European Travel Commission – ETC]

Là một khối liên minh chiến lược cộng tác giữa 31 tổ chức du lịch quốc gia Châu Âu. ETC là một tổ chức du lịch phi lợi nhuận, được thành lập năm 1948, trụ sở chính đặt tại Brussels, Bỉ.

Mục tiêu của ETC là :

– Hỗ trợ về hợp tác du lịch quốc tế ở các nước Châu Âu

– Trao đổi các thông tin về các dự án phát triển du lịch và kỹ thuật tiếp thị

– Cam kết triển khai các họat động nghiên cứu về du lịch

– Xúc tiến họat động du lịch đến các nước ở Châu Âu, đặc biệt từ Bắc Mỹ và Nhật Bản

Hiện tại chiến lược của Hiệp hội này tập trung vào các họat động sau :

– Cải tiến chất lượng dịch vụ ở Châu Âu

– Kích cầu ở các nước lân cận bằng cách bỏ Visa, đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập cảnh

– Cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch

– Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.

1. Bạn đã hiểu khu du lịch là gì?

Khu du lịch là một trong những thuật ngữ tương đối phổ biến sử dụng trong ngành du lịch. Nếu bạn là sinh viên học du lịch nói chung và học về quản trịdu lịch và lữ hành nói riêng, chắc chắn bạn đã hiểu rất rõ về thuật ngữ này.Khái niệm này được hiểu là không gian du lịch có môi trường đẹp, cảnh quan tương đối tập trung, bao gồm tổng thể các điều kiện về địa lý thích hợp phát triển chức năng tham quan, thưởng ngoạn, nghỉ dưỡng của du khách. Chính vì vậy, các công ty lữ hành thường chọn cách thiết kế một tour du lịch dựa trên vị trí của các khu du lịch.

Bạn đã hiểu khu du lịch là gì?

Cụ thể hơn, tại điều 4, luật Du lịch ban hành năm 2005, khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch đa dạng của khách du lịchtrong nước và nước ngoài, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.

Định nghĩa này cần được khu biệt rõ ràng với một khái niệm tương đối giống và thường bị nhầm lẫn bởi rất nhiều người, bao gồm lữ khách hay dân du lịch mới vào nghề, đó là điểm du lịch. Theo giáo trình tổng quan về du lịch và phát triển du lịch bền vững, tiến sĩ, Nguyễn Bá Lâm, đại học Phú Yên từng nhấn mạnh “Điểm du lịch chỉ một loạt các địa điểm, hàng hoá, phong tục và sự kiện có các đặc điểm riêng hoặc địa điểm riêng trong một bối cảnh cụ thể, thu hút sự quan tâm của khách.”

Trên thực tế, nếu không phải là dân ngành du lịch, sẽ hiếm khi bạn tự đặt ra câu hỏi về sự khác nhau giữa khu du lịch, điểm du lịch hay đô thị du lịch…

Bởi lẽ, về cơ bản, ở phương diện của những người muốn tận hưởng du lịch, tất cả những mô hình này đều có điểm chung là cung cấp những căn cứ du lịch, dịch vụ xê dịch, phương tiện...giúp bạn có một kỳ xả hơi như ý.

Định nghĩa khu du lịch

Tuy nhiên, xét trên phương diện quản lý, việc xác định và phân loại các mô hình, không gian du lịch như điểm hay khu du lịch có tác dụng lớn trong việc phân bổ nguồn nhân lực quản lý, xác định đúng được thế mạnh, chức năng chính của từng loại hình, từ đó mở rộng, phát triển đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu về thưởng thức không gian, dịch vụ của các du khách và kích thích hiệu quả về phát triển kinh tế du lịch cũng như môi trường và xã hội nói chung.

Trong một khu du lịch, có thể can thiệp cải tạo để hình thành nhiều địa điểm du lịch thú vị nhằm kích thích sự quan tâm của du khách. Tại Việt Nam, khu du lịch sinh thái Tràng An là đại diện nổi bật nhất. Nằm trong quần thể di sản thế giới Tràng An, khu du lịch sinh thái này gồm loạt danh thắng - điểm đến du lịch thiên nhiên lẫn văn hóa lý tưởng dành cho khách thập phương bao gồm: Cố đô Hoa Lư - Tràng An - Tam Cốc - Bích Động, Hang múa, đầm Vân Long. Nhờ sự quy hoạch trên phạm vi quy mô “khu”, điều này, giúp khách du lịch trải nghiệm đầy đủ vùng non nước mây trời hòa quyền này bằng cách đi thuyền du ngoạn hệ thống hang động, chiêm ngưỡng bức tranh cò trắng ở góc đầm Vân Long, trong cùng một chuyến đi, du khách thể tham gia lễ hội bơi thuyền và tận hưởng không gian cổ kính, đậm chất lịch sử tại cố đô Hoa Lư. Đây là địa điểm được rất nhiều du khách ưa thích kiểu ecotourismlựa chọn tham quan ngắn ngày.

Việc làm du lịch

Điểm Du Lịch Là Gì? Đặc Điểm Và 5 Yếu Tố Cấu Thành Điểm Du Lịch

Nguyễn Lê Hà Phương

09-12-2021

5/5 [7 đánh giá] 1 bình luận

Điểm du lịch là phân cấp thấp nhất trong phân vùng du lịch, mang tới những sức hút mạnh mẽ cho du khách so với những điểm xung quanh. Để tìm hiểu rõ hơn điểm du lịch là gì? Đặc điểm và các yếu tố cấu thành điểm du lịch, hãy cùng Tri Thức Cộng Đồng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Tham khảo thêm các bài viết cùng chủ đề khác:

  • Phân loại tài nguyên du lịch
  • Khái niệm, đặc điểm và các loại sản phẩm du lịch biển đảo

1. Điểm du lịch là gì?

Điểm du lịch [Tourist destination hay tourist attraction] là nơi có tài nguyên du lịchhấp dẫn, phục vụ nhu cầuthăm quancủadu khách.

Điểm du lịch là gì?

Ảnh: Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch, phục vụ nhu cầudu khách

Điểm đếncó thểhiểudễ dànglà các địa điểm du lịch như các công viênchủ đề, những câu lạc bộ khách sạn và các làng du lịch. Những nơi nàycó khả nănglà các điểm đến cho một chuyến đi trong ngày, một kỳ nghỉ ngắn hoặc dài ngày.

Ở mộtphương diệnkhác, thì cácquốc gia, các lục địa cũng được xem xét và chào bán như là các điểm đến du lịch [Uỷ ban lữ hành Châu âu [ETC]] và hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương [PATA]có trách nhiệmtiếp thị cho Châu âu và khu vực Thái Bình Dương như là những điểm đến du lịch.

Như vậy, các điểm đến du lịch cũng được coi là một dạng thứcsản phẩm thị trường du lịchđặc biệttheotiếp cậnquản trị kinh doanhvà marketing du lịch.

Nhìn chung có các điểm đến sau:

– Các đô thị lớn, các trung tâm

– Các trung tâm truyền thống đượckhai triểntheomục tiêudu lịch [các trung tâm tour du lịch cũng là dạng thức điểm đến này]

– Các khu vực nghỉ ngơiđược tạo racó chủ đích du lịch.

– Cácquốc gia[Việt Nam, Thái Lan….]

– Nhóm cácđất nước[ASEAN, EU…] và lục địa [á, âu, mỹ].

Xem thêm : Địa điểm du lịch là gì ? Phân loại và đặc điểm

1. Khái niệm và đặc điểm của khu du lịch

Tại Khoản 6 Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 quy định như sau: “6.Khu du lịchlà khu vực có ưu thế về tài nguyên du lịch, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đápứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Khu du lịch bao gồm khu du lịch cấp tỉnh và khu du lịch quốc gia.”

Như vậy, khu du lịch là một khu vực địa lý có chứa tài nguyên du lịch nổi bật hơn so với các khu vực lân cận, đồng thời khu vực này được quy hoạch tập trung, có cơ cấu tổ chức cụ thể, khu vực này có khả năng thu hút khách du lịch đến du lịch. Hiện khu du lịch được phân chia thành khu du lịch cấp tỉnh và khu du lịch quốc gia

Có thể nhận thấy đặc điểm đầu tiên của khu du lịch đó chính là chứa đựng những ưu thế về tài nguyên du lịch. Các tài nguyên du lịch tại các khu vực “ưu thế” hơn các khu vực khác hiểu đơn giản đó chính là sự nổi bật của các khu du lịch này với các vùng lân cận. Ví dụ như ở khu vực nào cũng có đền, chùa, tuy nhiên, ở một số địa phương có những đền, chùa mang đậm tính lịch sử, có giá trị to lớn đối với lịch sử nước nhà, có thể kể đến ở đây là Đền Hùng, Chùa Bái Đính, Chùa Yên Tử,…, những khu vực này chính là các tài nguyên du lịch “ưu thế”.

Bên cạnh đó, khu du lịch là những khu vực được quy hoạch cụ thể. Quy hoạch ở đây chính là việc xác định ranh giới của khu du lịch đó với khu vực bên ngoài và việc tổ chức cơ cấu trong khu du lịch. Mỗi khu du lịch đều được xác định cụ thể về vị trí địa lý, diện tích cụ thể. Đồng thời, trong khu du lịch cũng được tổ chức cụ thể, mỗi bộ phận trong khu du lịch đều đóng vai trò nhất định.

Xem thêm: Du lịch nội địa là gì? Vai trò và lợi ích của du lịch nội địa?

Khu du lịch là điểm sáng trong hoạt động du lịch, nên các khu du lịch đều nhận được sự đầu tư, chú trọng phát triển của Nhà nước. Việc đầu tư phát triển là một hoạt động vô cùng quan trọng, vừa nhằm mục đích bảo tồn khu du lịch, vừa phát triển hoạt động du lịch, thu hút du khách đến khu vực đó.

Điểm du lịch

Khái niệm

Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2017: “Điểm du lịch được hiểu là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”.

Như vậy, khái niệmĐiểm du lịchmới chỉ nói đến một phạm vi hẹp của nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn phục vụ cho khách du lịch mà chưa chỉ rõ được qui mô, mức độ, việc lưu lại của khách du lịch, điều kiện tiếp cận, sản phẩm du lịch, ranh giới hành chính để quản lí, cũng như sự nhận diện về hình ảnh của điểm đến du lịch.

Đặc điểm và phân loại

Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị về mặt lãnh thổ, điểm du lịch có qui mô nhỏ, trên bản đồ các vùng du lịch người ta có thể hiểu điểm du lịch là những điểm riêng biệt. Sự chênh lệch về diện tích của các điểm du lịch là tương đối lớn.

Điểm du lịch là nơi tập trung tài nguyên du lịch hay cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch, hoặc kết hợp cả hai ở qui mô nhỏ. Vì thế điểm du lịch có thể được phân thành hai loại: Điểm tài nguyên và điểm chức năng.

Thời gian lưu trú của khách từ 1 đến 2 ngày [trừ các điểm du lịch chức năng, thí dụ như điểm du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh].

Theo Khoản 6, Điều 1 - Luật Du lịch Indonesia đã xác định điểm du lịch như sau:

"Trước hết đó là một vị trí có tài nguyên du lịch và có sức hấp dẫn, sức hút đối với con người. Tất cả những điều này đều được Chính phủ xác định và quản lí. Việc xây dựng các điểm này phục vụ cho du lịch phải được đảm bảo bốn yêu cầu:

Thứ nhất, có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội tại địa phương; Thứ hai, đảm bảo giữ gìn được những gái trị văn hóa, tín ngường và phong tục tập quán đang tồn tại ở địa phương; Thứ ba, bảo vệ được môi trường sinh thái; Thứ tư, đảm bảo sự phát triển du lịch lâu dài.

[Tài liệu tham khảo: Qui hoạch du lịch, Bùi Thị Hải Yến, NXB Giáo dục Việt Nam]

Điểm đến du lịch liên kết [Linked travel destinations] là gì?

23-06-2020 Tiểu vùng du lịch là gì? Phân loại

23-06-2020 Trung tâm du lịch là gì? Điều kiện

Sự khác biệt giữa Điểm đến và Điểm thu hút

Sự khác biệt giữa Điểm đến và Điểm thu hút - ĐờI SốNg

Video liên quan

Chủ Đề