Tại sao ngân hàng trung ương nền là cơ quan độc lập Chính phủ

Chắc hẳn bạn đã từng nghe đến ngân hàng trung ương, tuy nhiên ngân hàng trung ương là gì và đảm nhiệm chức năng gì thì không phải ai cũng biết được. Tìm hiểu những thông tin về ngân hàng trung ương trong bài viết này bạn nhé.

Ngân hàng trung ương là gì? Ngân hàng trung ương có phải là ngân hàng Nhà nước không?

Ngân hàng trung ương là gì?

Ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng trung ương là cơ quan Nhà nước đảm trách việc quản lý các hệ thống tiền tệ của quốc gia. Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là phát hành giấy bạc và thực hiện những chức năng quản lý tiền tệ, như ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định nguồn cung tiền trong đất nước, kiểm soát mức lãi suất để ổn định nền kinh tế, cứu giúp các vấn đề của ngân hàng thương mại tránh nguy cơ đổ vỡ.

Chức năng của ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương được biết đến gồm 3 chức năng cơ bản là:

Phát hành tiền tệ

Chức năng đầu tiên và vô cùng quan trọng của ngân hàng trung ương là việc phát hành tiền tệ chính thức và hợp pháp theo những quy định trong luật pháp và được chính phủ phê duyệt nhằm đảm bảo sự thống nhất trong lưu thông tiền tệ của đất nước. Tiền VNĐ được phát hành bởi ngân hàng trung ương là hợp pháp duy nhất được cưỡng chế dùng trong thanh toán. 

Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương còn ở việc xác định số lượng tiền cần phát hành, thời điểm và phương thức phát hành tùy thuộc vào tình hình phát triển kinh tế để đảm bảo sự ổn định tiền tệ.  

Javascript Fullstack Developer - Apply Now

👉 Xem thêm: Giải ngân là gì? Những thông tin bạn nên biết về giải ngân

Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng?

Chức năng của ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng vì NHTW không tham gia kinh doanh tiền tệ và tín dụng trực tiếp trong nền kinh tế, mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đối với các ngân hàng trung gian. Các nghiệp vụ đó là:

Mở tài khoản và nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung gian

Ngân hàng trung ương đảm trách việc nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian trên cả nước, dưới dạng tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc. 

Tiền gửi dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ ngân hàng trung ương yêu cầu bắt buộc ngân hàng trung gian phải gửi lại. Số tiền này nhằm đảm bảo khả năng chi trả của ngân hàng trung gian trước nhu cầu rút tiền của khách hàng. 

Bên cạnh tiền gửi dự trữ, tiền gửi thanh toán là khoản tiền mà ngân hàng trung gian phải duy trì thường xuyên tại tài khoản của ngân hàng trung ương. Khoản tiền này phục vụ nhu cầu thanh toán tiền, đáp ứng nhu cầu giao dịch với NHTW và chi trả với các ngân hàng khác. 

Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian

Chức năng quan trọng tiếp theo của ngân hàng trung ương là thực hiện hoạt động cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian bằng tái chiết khấu chứng từ có giá ngắn hạn được nắm giữ bởi các ngân hàng trung gian. Đây là hình thức cấp vốn của NHTW cho các ngân hàng trung gian mở rộng hoạt động tín dụng. 

Ngân hàng Trung ương đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong chuỗi vay tiền tệ của các ngân hàng. Việc cấp tín dụng dẫn đến phải phát hành một lượng tiền giấy mới, vì thế điều kiện tín dụng rất chặt chẽ và được giới hạn bởi mức tái chiết khấu, thời hạn và chủng loại chứng từ có giá được chấp nhận chiết khấu. NHTW còn đóng vai trò bảo vệ ngân hàng trung gian khỏi nguy cơ phá sản bằng những khoản tín dụng.

Ngoài ra, ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán và bù trừ giúp tiết kiệm chi phí thanh toán, luân chuyển vốn cho các ngân hàng trung gian và nền kinh tế xã hội. 

👉 Xem thêm: Bank Statement là gì? Tổng hợp các thông tin liên quan!

Ngân hàng của Chính phủ

Ngân hàng Trung ương là cơ quan của chính phủ, có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ và làm đại lý, tư vấn chính sách về tài chính tiền tệ cho Chính phủ. 

Tại sao nói ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ?

Tại sao nói ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ?

Trên Thế giới, hầu hết các ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ về mặt pháp lý, mục tiêu, hoạt động và quản lý. 

Tuy nhiên, theo Nghị định 156, thì:

  • Ở nước ta ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thuộc sở hữu của Nhà nước và là cơ quan trực thuộc Chính phủ nên không độc lập về pháp lý.
  • Ngân hàng Trung ương được xây dựng chỉ tiêu lạm phát, nhưng quyền phê duyệt vẫn thuộc về Chính phủ, nên vẫn chưa có quyền độc lập về quyết định mục tiêu chính sách của mình.
  • NHTW được quyền thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia, nhưng việc hoạch định này vẫn chịu tác động của Chính phủ về mục tiêu lạm phát, nên không độc lập trong hoạt động.
  • Cuối cùng, những quy định về công tác điều hành hoạt động của NHTW do Chính phủ Nhà nước ban hành. Do đó, NHTW không độc lập trong việc quản lý hoạt động của mình.

Vì những điểm trên đây, Ngân hàng Trung ương nước ta vẫn chỉ là cơ quan thuộc Chính phủ và không độc lập như nhiều nước trên Thế giới. 

👉 Xem thêm: Những điều cần biết về nghiệp vụ giao dịch viên ngân hàng

Bài viết trên đây đã làm rõ khái niệm ngân hàng trung ương là gì và những chức năng của ngân hàng trung ương. Mong rằng bạn đã hiểu thêm về ngân hàng trung ương – ngân hàng quan trọng nhất của đất nước. 

Nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì Ngân hàng Trung ương [NHTW] chính là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế. Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, NHTW cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.

Ở Việt Nam, trước khi hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời [5/1990], hệ thống Ngân hàng hoạt động theo mô hình một cấp, tức là NHNN vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Sau khi hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, hệ thống Ngân hàng chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình hai cấp; theo đó, lần đầu tiên đối tượng , nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi:

- NHNN thực thi nhiệm vụ qủan lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; thực thi nhiệm vụ của một và là ngân hàng của các ngân hàng. NHNN là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.NHTW- là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền

- Các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các định chế tài chính, ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.

Tháng 12/1997, Luật NHTW của nước CHXHCN Việt Nam ra đời và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1998. Theo đó NHNN là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Kể từ đó đến nay, ngành Ngân hàng nói chung và NHNN Việt Nam nói riêng đã có những bước tiến khá dài trên con đường phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước có nhiều biến động khó lường, những hạn chế của ngành Ngân hàng nói chung và  NHNN nói riêng là điều khó tránh khỏi và cần có sự cải cách như Đảng và Nhà nước đã chỉ ra ở trên.

Trước tình hình đó, một vấn đề lớn được đặt ra: Thế nào là một NHTW hiện đại? Câu hỏi tưởng chừng như rất đơn giản này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả ở các nước trên thế giới cũng chưa có một định nghĩa chính thống nào về NHTW hiện đại.

 Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW: [1] NHTW độc lập với Chính phủ; [2] NHTW là một cơ quan thuộc Chính phủ; và [3] NHTW thuộc Bộ Tài chính.

Liên quan đến việc lựa chọn mô hình NHTW, nhiều chuyên gia kinh tế nhất trí rằng không có mô hình NHTW nào là lý tưởng cho mọi quốc gia. Sự lựa chọn này không hoàn toàn nằm trong ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế- xã hội và thể chế chính trị của từng nước.

Điều đó có nghĩa rằng mỗi một quốc gia có thể vận dụng một mô hình NHTW khác nhau phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình. Ở nước ta, NHNN là cơ quan của Chính phủ và Thống đốc NHNN là thành viên Chính phủ. Thời gian qua, khi bàn đến vấn đề cải cách NHNN, một số ý kiến cho rằng chúng ta nên lựa chọn mô hình NHTW độc lập với lý do cơ bản được đưa ra là NHTW càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát thấp càng dễ thực hiện. Về mặt lý thuyết, điều này là đúng, tuy nhiên, tác giả cho rằng trong thời điểm hiện nay và có thể trong nhiều năm tới, mô hình NHNN là một cơ quan của Chính phủ như hiện nay vẫn phù hợp với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế- xã hội và hệ thống luật pháp của nước ta. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN với tư cách là một NHTW trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết. Nâng cao tính độc lập không có nghĩa là phải tách NHNN ra khỏi bộ máy Chính phủ mà cần phải trao thêm quyền cho Thống đốc- người đứng đầu NHNN- trong việc chủ động lựa chọn và điều hành các công cụ chính sách tiền tệ. Như vậy, trong bối cảnh nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là thay đổi mô hình là lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho  phù hợp với NHNN?

Theo một nghiên cứu được Quỹ Tiền tệ quốc tế [IMF] công bố vào tháng 12/2004, về cơ bản, các NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ độc lập tự chủ gồm: [i] Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động; [ii] Độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động; [iii] Độc lập tự chủ trong  lựa chọn công cụ điều hành; và [iv] Độc lập tự chủ hạn chế.

NHNN cần có đủ nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất

Để góp phần làm sáng tỏ phần nào vấn đề đặt ra, chúng ta hãy cùng phân tích từng cấp độ độc lập tự chủ nói trên và đối chiếu với điều kiện thực tế ở Việt Nam để có thể rút ra kết luận hợp lý; cụ thể là:

- Thứ nhất, độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô hình này, NHTW có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ [CSTT], chế độ tỷ giá [nếu không theo chế độ thả nổi tỷ giá] và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự chủ cao nhất mà một NHTW có thể đạt được mà ví dụ điển hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ [FED]. Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp độ độc lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTW phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ [CSTT] thắt chặt. Bên cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi NHTW có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì NHTW mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra.

Ngoài các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế- tài chính là rất khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, mức độ tự chủ này là không phù hợp với NHNN ít nhất là trong thời gian trung hạn.

- Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động: Ở cấp độ này này, NHTW cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá nhưng khác với cấp độ độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động ở chỗ một mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTW được quy định cụ thể trong Luật, ví dụ như mục tiêu hoạt động hàng đầu của NHTW Châu Âu [ECB] là “duy trì sự ổn định  giá cả”. Với cấp độ độc lập tự chủ này, việc thay đổi mục tiêu duy nhất đòi hỏi phải sửa đổi Luật NHTW. Hơn nữa, tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép [các biến số kinh tế- tài chính đã trở nên ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện;…];

- Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô hình này, Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHTW. Khi quyết định được thông qua, NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Tiêu biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ New Zealand [The Reserve Bank of New Zealand] và Ngân hàng Canada [The Bank of Canada]. Nói cách khác, NHTW được trao đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt được các chỉ tiêu đã được thỏa thuận giữa Chính phủ/Quốc hội với NHTW.

 - Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế: Là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ là nơi quyết định chính sách [cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động] cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập.

Một số công trình nghiên cứu khác nhau cũng đã đi đến kết luận rằng những nước mà NHTW có mức độ độc lập tự chủ cao thường có tỷ lệ phạm phát thấp [Eijffinger & De Haan, 1996]. Nói chung, các nghiên cứu về NHTW thường nghiêng về ý kiến cho rằng nên giao việc xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTW chuyên sâu, độc lập và kiên định với mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các tác động về mặt chính sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính độc lập của NHTW cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan. Việc thiếu tôn trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng NHTW độc lập về mặt hình thức không có khả năng kiểm soát lạm phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả.

Như vậy, theo quan điểm của tác giả, cấp độ “Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp nhất với NHNN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, đặc biệt là trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ này cho phép dung hòa giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định.

Với những lập luận nói trên, tác giả cho rằng trong thời gian trước mắt, chúng ta không nên đặt vấn đề lựa mô hình NHTW độc lập với Chính phủ. Thay vào đó, để đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu đề ra, NHNN Việt Nam cần được trao quyền độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra các quyết định chính sách; đồng thời được quyền kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là về vấn đề chống lạm phát, hạn chế việc tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, cũng cần trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự chủ về ngân sách. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ để đảm bảo thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất.

                                                                                Doãn Hữu Tuệ

[Viện Chiến lược Ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam]

Video liên quan

Chủ Đề