Tháng 6 năm 1950 Đảng và Chính phủ Việt Nam dân chủ công hòa quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm

Khu vực Lạng Sơn, Cao Bằng cũng chính thức trở thành đầu mối [cửa ngõ] giao lưu giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.

Trong chặng đường 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam [1945 - 1975], Chiến dịch Biên giới 1950 có vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là “chiến dịch phá vòng vây”, mở ra “cánh cửa” tiếp xúc với thế giới bên ngoài cho cách mạng. Tròn 7 thập kỉ đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của chiến công vang dội ấy.

Nhiều loại vũ khí, khí tài hiện đại của Pháp, trong đó có không ít loại mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy hoặc thu được trong chiến dịch Điện Biên Phủ. [Ảnh: Tư liệu TTXVN]

Đến giữa năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược bước sang năm thứ tư và đang đứng trước tình thế mới. Dù phải “chiến đấu trong vòng vây” của thực dân Pháp, song dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với phương châm “tự lực cánh sinh”, quân dân Việt Nam giành được những thắng lợi rất cơ bản: Vùng giải phóng được giữ vững; phong trào chiến tranh du kích diễn ra rộng khắp, từng bước kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch; lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển nhảy vọt cả về số lượng và chất lượng...

Tuy nhiên, cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn. Thực dân Pháp, được đế quốc Mỹ hậu thuẫn [thông qua kế hoạch Rơ-ve] xây dựng “tuyến hành lang cơ bản” [Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La] hòng cắt liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc [nơi đặt cơ quan đầu não chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến của ta] với đồng bằng Liên khu III, Liên khu IV; đồng thời tăng cường phòng ngự tại các tỉnh biên giới phía Bắc nhằm “khóa chặt biên giới Việt - Trung”, tiếp tục cô lập cách mạng Việt Nam với thế giới bên ngoài.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát mặt trận Đông Khê, Chiến dịch Biên giới, ngày 16/9/1950. Ảnh: Vũ Năng An

Phản ánh sự khó khăn ngay tại căn cứ địa Việt Bắc thời gian từ năm 1949 đến giữa năm 1950, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: “Trong năm 1949, giá gạo bắt đầu tăng vọt. Ở Thái Nguyên, đầu năm giá một ki-lô-gam gạo là 4,3 đồng, giữa năm tăng lên 14,2 đồng, cuối năm tăng lên 22 đồng. Tiền sinh hoạt phí của bộ đội chỉ đủ mua bảy đến 8 ki-lô-gam gạo. Đến mùa Hè này thì hầu như có tiền cũng không mua được gạo. Cán bộ từ các tỉnh lên làm việc với cơ quan Trung ương phải mang gạo theo, hoặc là mang thuốc lào, vải vóc để có thể đổi lấy gạo. Đồng tiền Việt Nam mất giá nhanh”. Nhu cầu bức thiết đặt ra của cách mạng Việt Nam lúc này là phải tìm cách phá thế bao vây, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo sức mạnh tổng hợp tiếp tục đưa kháng chiến tiến lên.

Bối cảnh quốc tế lúc này có sự chuyển biến quan trọng. Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời [1/10/1949] tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt đối với cuộc kháng chiến của ta. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Cách mạng Trung Quốc thành công đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ trước mắt phải nhanh chóng giải phóng một vùng biên giới phía Bắc tiếp giáp với khối xã hội chủ nghĩa. Đây sẽ là hậu phương lớn của cách mạng ba nước Đông Dương. Chỉ có mở thông đường giao lưu quốc tế, ta mới có điều kiện tiếp nhận sự chi viện từ các nước anh em”.

Để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam, đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật vượt qua tuyến phòng thủ biên giới của quân Pháp ở Cao Bằng, đi thăm Trung Quốc, Liên Xô. Trong các cuộc hội đàm, các nhà lãnh đạo Liên Xô, Trung Quốc đều cam kết ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến giành độc lập; đồng thời thống nhất nhận định: vấn đề quan trọng nhất lúc này là phải “khai thông biên giới Việt Nam - Trung Quốc”. Cũng từ tháng 1 năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ kháng chiến [Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa]. Từ đây, Việt Nam chính thức trở thành tiền đồn của phòng tuyến chống đế quốc ở Đông Nam Á; cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh theo phe xã hội chủ nghĩa cũng như phong trào cách mạng thế giới.

Trong tình thế đó, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng, Chính phủ chủ trương mở chiến dịch quy mô lớn ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nhằm mục đích: “Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường thông thường với các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc”. Mục đích giải phóng một phần biên giới để mở cánh cửa ra với thế giới bên ngoài là quan trọng nhất. Tuy nhiên, việc lựa chọn hướng chính chiến dịch [Đông Bắc hay Tây Bắc] chưa thống nhất.

Tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng tiếp tục họp bàn, quyết định chọn hướng tiến công chính ở Cao Bằng - Lạng Sơn, dựa trên những cơ sở: Thứ nhất, đây là địa bàn hiểm yếu, thuận lợi giao thông quốc tế: Đường số 4 chạy dọc biên thùy Đông Bắc tới miền duyên hải Vịnh Bắc Bộ, dọc đường có nhiều cửa khẩu thông sang Trung Quốc; đặc biệt là có hai tuyến đường chiến lược [Đường số 3, Đường số 1] chạy từ biên giới [thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn] về căn cứ Việt Bắc và tiến xuống phía nam, có thể trở thành những đầu mối giao thông tiếp nhận hàng viện trợ. Thứ hai, tuy quân Pháp trên tuyến phòng thủ Cao Bằng - Lạng Sơn đông, tổ chức thành những cụm cứ điểm mạnh dọc theo Đường số 4 [Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng...], nhưng các cụm cứ điểm này cách xa nhau [30 - 40km], thuận lợi cho ta chia cắt và “đánh điểm, diệt viện”. Thứ ba, địa hình rừng núi không quá hiểm trở, phù hợp với sở trường tác chiến của quân đội ta tại thời điểm này. Thứ tư, xét trên toàn tuyến biên giới, đây là địa bàn thuận lợi cho việc huy động nhân lực, vật lực phục vụ cho hoạt động tác chiến dài ngày.

Lực lượng tham gia chiến dịch gồm phần lớn các đơn vị cơ động chiến lược của Bộ: Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174 và bốn đại đội sơn pháo, năm đại đội công binh; phối hợp cùng lực lượng vũ trang của Liên khu Việt Bắc và hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Lực lượng hậu cần có khoảng ba vạn người, cộng thêm 12 vạn dân công dự kiến phục vụ trong vòng 3-4 tháng với trên 1.700.000 ngày công, khối lượng vận tải [chủ yếu là lương thực, súng đạn] từ xa đến khoảng 4.000 tấn. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp đi mặt trận tham gia chỉ đạo, đồng thời động viên cán bộ, chiến sĩ, đồng bào.

Chiến dịch Biên giới diễn ra 29 ngày đêm [16/9 - 14/10/1950] kết thúc thắng lợi, mở ra bước ngoặt phát triển cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Ta diệt và bắt hơn 8.000 quân tinh nhuệ địch, thu 3.000 tấn vũ khí; mở thông dải biên giới Đông Bắc kéo dài từ Cao Bằng đến Đình Lập [Lạng Sơn]. Trên cơ sở đó, từ năm 1950 đến năm 1954, ta từng bước khôi phục, mở mới tuyến giao thông vận tải hậu phương chiến lược từ biên giới Việt - Trung [Cao Bằng - Lạng Sơn] sang Tây Bắc [Lai Châu - Điện Biên Phủ] qua Hòa Bình vào tới nam Hà Tĩnh với tổng chiều dài 2.080km. Từ đây, khu vực Lạng Sơn, Cao Bằng cũng chính thức trở thành đầu mối [cửa ngõ] giao lưu giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa; và là “đầu cầu” tiếp nhận phần lớn hàng viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam: 3.983 tấn [1950]; 6.086 tấn [1951]; 2.156 tấn [1952]; 4.400 tấn [1953]; 4.892 tấn [nửa đầu năm 1954]; bảo đảm cho cách mạng giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn, đặc biệt là trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Chiến dịch Biên giới 1950 khẳng định sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng đặt ra và phù hợp với tình hình biến chuyển của phong trào cách mạng thế giới. Đồng thời, thắng lợi này cũng chỉ ra cho cách mạng nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về việc tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, đó là: “Quá trình tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc tế luôn luôn gắn liền với nỗ lực của ta đánh thắng địch trên chiến trường. Mỗi thắng lợi qua các giai đoạn chiến lược là một bước phát triển mới trong sự nghiệp tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế”.

Nguồn: VOV.VN

70 năm trước đây, trên miền biên giới Đông Bắc đất nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Việt Nam mở chiến dịch tiến công quy mô lớn vào hệ thống phòng ngự quân đội Pháp [khu vực Đường số 4]. Chiến dịch giành thắng lợi vang dội, mở ra bước ngoặt mới theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát mặt trận Đông Khê, Chiến dịch Biên giới, ngày 16/9/1950. Ảnh: Vũ Năng An 

Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp đi mặt trận tham gia chỉ đạo

Đến giữa năm 1950, cuộc kháng của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược có sự phát triển toàn diện. Tuy nhiên, cách mạng còn gặp nhiều khó khăn. Thực dân Pháp, được đế quốc Mỹ hậu thuẫn xây dựng “tuyến hành lang cơ bản” [Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La] hòng cắt liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc của ta với đồng bằng Liên khu III, Liên khu IV; đồng thời tăng cường hệ thống phòng ngự tại các tỉnh biên giới phía Bắc nhằm “khóa chặt biên giới Việt - Trung”, cô lập cách mạng Việt Nam với thế giới bên ngoài. 

Bối cảnh quốc tế lúc này có sự chuyển biến quan trọng. Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa ra đời [1/10/1949] tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng nước ta có thể quan hệ trực tiếp với các nước xã hội chủ nghĩa, tiếp nhận viện trợ quốc tế. Từ tháng 1 năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ kháng chiến [Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa]. 

Trong tình thế đó, để tạo bước “đột phá” xoay chuyển cục diện chiến tranh, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng, Chính phủ chủ trương mở chiến dịch quy mô lớn ở vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc nhằm mục đích: “Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới, mở đường thông thường với các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc”. Tuy nhiên, việc lựa chọn hướng chính chiến dịch [Đông Bắc hay Tây Bắc] chưa thống nhất. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch tác chiến Chiến dịch Biên giới năm 1950. Ảnh: TTXVN

Tháng 7 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng tiếp tục họp bàn, quyết định chọn hướng tiến công chính ở Đông Bắc [trọng điểm là Cao Bằng - Lạng Sơn], vì đây là địa bàn hiểm yếu; địa hình rừng núi phù hợp với sở trường tác chiến bộ đội ta; việc huy động nhân lực, vật lực có nhiều thuận lợi. 

Để bảo đảm giành thắng lợi, Trung ương Đảng huy động phần lớn các đơn vị chủ lực cơ động chiến lược của Bộ, bao gồm Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174 và bốn đại đội sơn pháo, năm đại đội công binh; phối hợp cùng lực lượng vũ trang của Liên khu Việt Bắc và hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn.

Ngày 25/7/1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy Chiến dịch Biên giới [mật danh Lê Hồng Phong II]. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quyết định sẽ trực tiếp đi mặt trận tham gia chỉ đạo, động viên cán bộ, chiến sĩ, đồng bào. Ngoài ra, chiến dịch còn được sự giúp đỡ tích cực về vũ khí, lương thực từ chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là có Đoàn cố vấn Trung Quốc bên cạnh Sở chỉ huy. 

Chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta 

Chiến dịch Biên giới 1950 là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta, mang ý nghĩa chiến lược rất to lớn. Sự thành - bại trong chiến dịch này có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi cục diện chiến tranh, đến lòng tin của quân và dân đối với đường lối kháng chiến của Đảng, đến quá trình xây dựng, trưởng thành của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị: “Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”. Thường vụ Trung ương Đảng cũng nhấn mạnh lại quyết tâm: “Phải thực hiện cho bằng được những nhiệm vụ chiến dịch đã nêu ra ở trên”.

Bộ đội ta tiến vào giải phóng thị trấn Đông Khê. Ảnh: TTXVN

Chấp hành chủ trương, chỉ đạo chiến lược đề ra, quân dân ta khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Riêng lực lượng hậu cần lên đến ba vạn người, cộng thêm 12 vạn dân công thuộc các dân tộc Việt Bắc ngày đêm hoạt động phục vụ tiền tuyến. Khối lượng vật chất vận chuyển từ xa đến mặt trận khoảng 4.000 tấn. Bên cạnh đó, Trung ương Đảng cũng giao nhiệm vụ cho các chiến trường đẩy mạnh hoạt động tại chỗ để phối hợp kiềm chế địch, không cho chúng dồn quân tăng viện cho mặt trận biên giới.

Lúc này, lực lượng quân Pháp trên tuyến phòng thủ biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn có 11 tiểu đoàn và 9 đại đội bộ binh [phần lớn là lính Âu - Phi tinh nhuệ] được trang bị vũ khí hiện đại, tổ chức thành những cụm cứ điểm mạnh dọc theo Đường số 4: Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình... cách nhau trung bình từ 25 - 30km. Trong trường hợp một cụm cứ điểm bị tiến công, địch có thể chi viện trực tiếp bằng đường không, hoặc tổ chức lực lượng ứng cứu đường bộ từ những cụm cứ điểm gần nhất.

Sau thời gian tích cực chuẩn bị, sáng ngày 16 tháng 9 năm 1950, ta tiến công cụm cứ điểm Đông Khê, mở màn chiến dịch. Đến sáng ngày 18 tháng 9, ta tiêu diệt toàn bộ quân phòng ngự, đẩy quân Pháp vào tình thế hoang mang: Thất Khê bị uy hiếp, Thị xã Cao Bằng bị cô lập; thế phòng thủ Đường số 4 bị lung lay. 

Bị mất Đông Khê, Bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định rút quân khỏi Cao Bằng theo Đường số 4 với kế hoạch “hành quân kép”: Tổ chức một cuộc hành quân đánh lên Thái Nguyên nhằm buộc ta đưa chủ lực về đối phó, giảm áp lực cho quân Pháp ở biên giới; đồng thời tổ chức một cuộc hành quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đông Khê, để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về. 

Nhận định đúng ý định của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo các đơn vị kiên trì mai phục chờ đánh quân tiếp viện. Đúng như dự đoán, ngày 30 tháng 9 năm 1950, quân Pháp bắt đầu triển khai kế hoạch hành quân. Chớp thời cơ, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 10 năm 1950, quân ta liên tục chặn đánh tiêu diệt từng cánh quân địch tại khu vực ngoại vi Đông Khê, làm phá sản hoàn toàn kế hoạch rút quân của chúng. Bộ chỉ huy quân Pháp hoảng loạn, ra lệnh rút quân khỏi hàng loạt cứ điểm trên Đường số 4: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập. 

Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi, hoàn thành xuất sắc mục tiêu cơ bản đề ra. Trải qua 29 ngày đêm chiến đấu [16/9 - 14/10/1950], ta diệt và bắt hơn 8.000 quân tinh nhuệ địch, thu 3.000 tấn vũ khí, mở thông dải biên giới Đông Bắc kéo dài từ Cao Bằng đến Đình Lập [Lạng Sơn], trực tiếp góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh: ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự. Đây thực sự “là kết tinh thành quả những nỗ lực phi thường của quân và dân ta trong những năm tháng chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ trong vòng vây bốn bề của địch, dưới sự lãnh đạo hết sức tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta”./.

Video liên quan

Chủ Đề