Thế nào là nước thu nhập trung bình năm 2024

“Chưa giàu đã già”, “tụt hậu xa hơn”, “sập bẫy thu nhập trung bình” tuy là những nguy cơ có trạng thái rộng hẹp khác nhau, nhưng “sập bẫy thu nhập trung bình” là nguy cơ đang được đề cập nhiều nhất.

“Bẫy thu nhập trung bình” là trạng thái một nền kinh tế đã vượt qua mốc thu nhập thấp (dưới 1.025 USD/người) để trở thành nước có thu nhập trung bình (1.025 - 12.475 USD/người), nhưng bị mắc kẹt ở mức thu nhập này, không thể tiếp tục vươn lên thành nước có thu nhập cao (trên 12.475 USD/người). Sự “mắc kẹt” này có các yếu tố như: không còn lợi thế về giá nhân công rẻ như những nước có thu nhập thấp; cũng không có ưu thế về cơ sở hạ tầng, về nguồn nhân lực trình độ cao và kỹ thuật - công nghệ hiện đại như những nước có thu nhập cao.

Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp từ năm 2008 (tính theo GDP bình quân đầu người vào năm đó đạt 1.145 USD/người). Hiện có 2 loại ý kiến khác nhau đánh giá về nguy cơ “sập bẫy thu nhập trung bình” của Việt Nam.

Thế nào là nước thu nhập trung bình năm 2024
.

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Việt Nam chưa rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” khi thời gian nằm ở nhóm nước có thu nhập trung bình thấp mới qua 1/3 theo thông lệ của thế giới. Với dự báo của một dự án nghiên cứu là đến năm 2035, Việt Nam đạt GDP bình quân đầu người 5.000 USD, vượt qua mức cao nhất của nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (4.035 USD/người).

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Việt Nam tuy chưa “sập bẫy thu nhập trung bình”, nhưng đang đứng trước nguy cơ này. Căn cứ xuất phát của loại ý kiến trên có 4 điểm.

Thứ nhất, tăng trưởng GDP Việt Nam đã bị chậm lại sau khi ra khỏi nhóm nước thu nhập thấp. Nếu bình quân năm của thời kỳ 1991-2007 là 7,49%, thì của thời kỳ 2008-2016 chỉ còn 5,15%. Năm nay, Chính phủ đang quyết tâm phấn đấu mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7% và nếu thực hiện được thì bình quân 2 năm còn thấp so với bình quân thời kỳ 1991-2007, cũng thấp hơn so với mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016-2020 (6,5-7%/năm).

Thứ hai, chênh lệch về mức GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương giữa Việt Nam với một số nước từ năm 2005 đến dự báo năm 2017 của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tăng lên (Malaysia tăng từ 12.860 lên 21.717 USD, Thái Lan tăng từ 6.603 lên 10.836 USD, Indonesia tăng từ 1.263 lên 5.527 USD..., trong khi Việt Nam tăng từ 3.103 lên 6.895 USD), tức là Việt Nam đã tụt hậu xa hơn. Trong khi đó, những nước này chưa thoát khỏi nhóm nước thu nhập trung bình, càng cảnh báo Việt Nam về nguy cơ “sập bẫy thu nhập trung bình thấp”.

Thứ ba, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, cùng với tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng vốn và tăng số lượng lao động, còn yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chiếm tỷ trọng thấp. Thời kỳ 2011-2015, yếu tố TFP - yếu tố chất lượng, chiều sâu - chiếm 28,94%, thấp khá xa so với nhiều nước. Năm 2017, tỷ lệ này của Việt Nam cao hơn, nhưng vẫn còn thấp so với nhiều nước.

Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở hiệu quả đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả đầu tư - hệ số ICOR còn cao: bình quân 2006-2015 ở mức trên 6,9 (tức là để tạo ra 1 đồng GDP phải đầu tư trên 6,9 đồng) - cao hơn thời kỳ 2001-2005 (4,88) và cao hơn Trung Quốc (6,4), Malaysia (5,4), Indonesia (4,64), Philippines (4,1)... Suất đầu tư tăng trưởng khả năng năm nay cũng cao hơn năm trước và cao hơn kế hoạch.

Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam thuộc loại khá cao, một mặt do số gốc so sánh (điểm xuất phát còn thấp), mặt khác do sự chuyển dịch cơ cấu lao động đang làm việc theo hướng tỷ trọng lao động đang làm việc ở nhóm ngành có năng suất lao động tuyệt đối thấp sang nhóm ngành có năng suất lao động cao hơn. Nhưng mức năng suất lao động của Việt Nam còn rất thấp so với các nước trong khu vực.

Thứ tư, đã xuất hiện một số vấn đề cản trở sự tăng bậc lên mức thu nhập cao hơn. Cơ cấu “dân số vàng” mới qua được mươi năm, nhưng có dấu hiệu bước vào thời kỳ già hóa tương đối nhanh, làm xuất hiện tình trạng “chưa giàu đã già”. Cơ cấu kinh tế sau mấy chục năm chuyển dịch tích cực, nhưng trong nhóm ngành nông nghiệp vẫn còn mang nặng tình trạng “lấy công làm lãi”. Ngành công nghiệp vẫn mang nặng tính gia công, lắp ráp, với trên một nửa giá trị công nghiệp và gần 3/4 xuất khẩu thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài. Nhóm ngành dịch vụ vẫn thiếu tính chuyên nghiệp, lao động phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn, nên năng suất và thu nhập không cao…

Một quốc gia dễ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình là khi quốc gia đó có nền kinh tế đạt mức thu nhập trung bình nhất định nhưng không được xếp vào nhóm các quốc gia có thu nhập cao, trong khi các quốc gia khác đã đạt được những tiến bộ đáng kể.

Theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB), nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp, sở hữu GDP bình quân đầu người từ 1.036-4.045 USD; nền kinh tế thu nhập trung bình cao, sở hữu GDP bình quân đầu người từ 4.046-12.535 USD và nhóm nền kinh tế thu nhập cao, có GDP bình quân đầu người trên 12.536 USD.

Thế nào là nước thu nhập trung bình năm 2024
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua thấp hơn các nước trong cùng thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Ảnh: Nam Khánh.

Việt Nam từ năm 2008 đã đạt ngưỡng 1.000 USD/người/năm và tăng đều hàng năm nhưng luôn nằm trong giới hạn thu nhập trung bình thấp. Sau 14 năm, tức năm 2022, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 4.100 USD/năm.

Vì vậy, Việt Nam thuộc nhóm có nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp suốt nhiều năm qua. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua chưa đủ nhanh để thu hẹp khoảng cách phát triển, bắt kịp các quốc gia tiên tiến trong khu vực. Tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn các nước trong cùng thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” là khá lớn.

Nhìn lại 50 năm qua, trên thế giới chỉ có một số rất ít quốc gia, có thể chuyển từ vị trí thu nhập trung bình lên vị trí thu nhập cao. Hàn Quốc là một ví dụ thành công nhất, đạt thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/năm vào năm 1977 và đến nay đạt 31.761 USD/năm.

Tại khu vực Đông Nam Á, Malaysia cùng có xuất phát điểm như Hàn Quốc, đạt ngưỡng thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/năm vào năm 1977, nhưng đến nay mới đạt 11.414 USD/năm. Thái Lan, đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/người vào năm 1988 đến nay vẫn ở mức 7.500 USD/người.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thời gian trung bình để một quốc gia chuyển từ nước thu nhập trung bình thấp, lên thu nhập cao khoảng 30-40 năm.

Trong khi đó, quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam đặt ra kế hoạch đạt thu nhập bình quân đầu người khoảng 7.500 USD vào năm 2030 và đạt từ 27.000 - 32.000 USD vào năm 2050, trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao.

Thế nào là nước thu nhập trung bình năm 2024
Nếu không tạo ra sự “phát triển thần kỳ” sẽ khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Ảnh Hoàng Hà.

Vì vậy, các chuyên gia kinh tế đều nhận định đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam tăng tốc để 30 năm nữa thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên thành quốc gia có thu nhập cao. Đây là cơ hội cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế của đất nước. Nếu không tạo ra sự “phát triển thần kỳ” sẽ khó vượt qua bẫy thu nhập trung bình, khó vươn lên quốc gia phát triển. Câu chuyện phát triển thần kì của Hàn Quốc và Nhật Bản suốt 50 năm qua đã minh chứng cho điều đó.

Việt Nam để có sự phát triển thần kì, cần tập trung thực hiện tốt 6 ưu tiên trong thời gian tới. Đó là, nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu và đẩy mạnh thương mại dịch vụ (tức là tăng mức độ phức hợp của quy trình sản xuất và tham gia nhiều hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu); Đẩy nhanh số hoá nền kinh tế, giúp đất nước bứt phá; Chuyển từ “tăng trưởng bằng mọi giá” sang “xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững”; Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, bằng cách cải thiện chất lượng chi tiêu công và tăng cường các giải pháp của khu vực tư nhân; Cân bằng sự ổn định của ngành ngân hàng với việc mở rộng tài chính toàn diện và phát triển thị trường vốn về chiều sâu; Chuyển từ nỗ lực giảm nghèo từng phần sang một chương trình bảo trợ xã hội trên toàn quốc.

Muốn thực hiện tốt những ưu tiên kể trên, điều quan trọng nhất là phải đẩy mạnh cải cách thể chế. Dựa trên thực tiễn ở Việt Nam và tham khảo những cách làm tốt nhất trên thế giới, một nền tảng gồm 5 cải cách thể chế cần thúc đẩy đó là: Khung định chế vững chắc; Thủ tục hành chính tinh giản; Công cụ thị trường thông minh; Tăng cường hiệu lực thực thi và Quy trình có sự tham gia, tham vấn.

Nhìn lại lịch sử, trong lúc cấp bách Việt Nam đã có quyết định táo bạo chuyển đổi nền kinh tế. Chẳng hạn như câu chuyện khoán hộ trong nông nghiệp vào năm 1981, hay chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 1986.

Đứng trước sự cấp bách luôn tạo áp lực để đổi mới đất nước. Một nhà tri thức đã từng nói, áp lực thay đổi luôn đến từ những nhà lãnh đạo xuất chúng. Chỉ có như vậy mới tạo ra được bứt phá đưa đất nước vươn lên cùng các quốc gia văn minh, phát triển.