Tư tưởng xuyên suốt tác phẩm Bình Ngô đại cáo là gì

Nhà vua, nhà thơ Lê Thánh Tông từng viết:

Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo

[Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê]

Chẳng phải ngẫu nhiên mà bậc minh quân nhà Lê lại viết về bậc khai quốc công thần - Nguyễn Trãi như thế. Nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang mà thảm khốc của Ức Trai, càng thấy tấm lòng ấy sáng rực cả non sông, chiếu sáng muôn đời. Từ cuộc sống trần thế đến văn chương, nhân cách, đức độ và cống hiến của ông luôn trọn vẹn. Mà một trong những điều làm nên sự toàn đức toàn tài đó chính là tư tưởng cốt lõi cả cuộc đời ông – tư tưởng nhân nghĩa. Bản Bình Ngô đại cáo, một áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi đã thể hiện sáng ngời tư tưởng ấy.

Xuất phát từ một quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa được hiểu là cách ứng xử tốt đẹp giữa người với người trong xã hội. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh tới cách hành xử thuộc về lối sống cá nhân, một trong những điểm rất nhân văn của đạo Nho. Thế nhưng trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi lại viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Vẫn là nhân nghĩa ấy, nhưng Ức Trai lại đưa ra cách hành xử không còn ở góc độ cá nhân nữa, mà là yên dân mang tầm quốc gia, dân tộc. Muốn thực hành nhân nghĩa tức là phải làm cho nhân dân có được cuộc sống yên ổn, bình an. Cái gốc của nhân nghĩa là ở nhân dân. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ. Vẫn biết Nguyễn Trãi luôn hành động, cống hiến cuộc đời mình cho dân, tôn thờ dân, nhưng không nghĩ rằng ông lại việc "lấy dân làm gốc" để luận bàn về việc nhân nghĩa thông thường.

Cách hành xử đơn thuần ấy qua thẩm thấu của một trái tim quảng đại, một nhân cách lớn luôn biết lo cho dân trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý ở đời. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập viết ở thế kỉ XX, cũng "suy rộng ra" từ những quyền rất cơ bản của con người, thành quyền chính đáng của dân tộc.

Có lẽ cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều nhìn nhận những vấn đề có tính triết lý thực ra lại bắt nguồn từ những điều yêu cầu rất đỗi bình thường. Vì vậy khi Nguyễn Trãi đưa ra quan điểm nhân nghĩa ở tác phẩm này, giá trị của tư tưởng ấy trở nên to lớn, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của hệ thống lí luận tư tưởng dân tộc Việt Nam.

Tuy nhiên, nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập tới ở đây không hề chung chung, trừu tượng mà nó là việc nhân nghĩa, tức là phải hành động để luôn luôn duy trì sự yên ổn của nhân dân. Cứ vậy thì trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sống dưới cảnh ngang tàng, bạo ngược của kẻ xâm lăng, nhân nghĩa chính là trừ bạo. Người thực thi nghĩa vụ này là quân điếu phạt, sức mạnh của quân đội mới đủ sức để đánh đuổi kẻ thù.

Ngay từ mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã hiện lên một cách rõ ràng, cụ thể. Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp và coi đó là mạch nguồn chi phối toàn bộ bản "tuyên ngôn". Ông khẳng định, không có nhân nghĩa không có nước Đại Việt hôm nay. Bởi nước Nam dựng xây Tổ quốc bằng các yếu tố thiết lập trên tinh thần nhân nghĩa. Có nền văn hiến, có lãnh thổ, có phong tục, có lịch sử, có hào kiệt,… đều từ cái gốc nhân nghĩa mà ra.

Dân ta gìn giữ chủ quyền, đấu tranh không mệt mỏi cũng để cho dân được hưởng độc lập, tự do. Quốc gia nào lớn bé gì có ý đồ xâm lược đều động chạm vào quyền lợi độc lập của dân, mà chưa kể lịch sử đã ghi nhận những việc, những chứng cớ đã từng như thế và những kẻ ấy đã bị trừng trị thích đáng. Nhân nghĩa là đứng lên bảo vệ dân, giữ gìn đất nước cũng được coi là hành động chính nghĩa sáng ngời. Vì thế ngay khi mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi xác lập được coi như là một cơ sở đạo lý, pháp lý hùng hồn nhất. Bài cáo từ đây đã có nền móng vững trãi, sắc bén để đi đến tuyên ngôn độc lập.

Giáo sư Đinh Gia Khánh từng nhận xét: "Tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước". Đúng vậy, nếu ở phần đầu bài cáo cơ sở lí luận được soi chiếu từ tư tưởng nhân nghĩa thì đến những phần sau một quá khứ đau thương mà rất đỗi anh hùng cũng được khơi dậy từ đó. Nhân nghĩa là việc cốt lõi để dân được yên. Vậy mà thời khắc rối ren của lịch sử năm ấy, dân đâu có được yên.

Mượn cớ chính sự phiền hà của nhà Hồ mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Chúng mang theo những luận điệu xảo trá, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế suốt hai mươi năm trời để ngang nhiên tiến vào Đại Việt để vơ vét của cải, để ép buộc dân lành, đến cả côn trùng, cây cỏ cũng chẳng tha.

Trong Bài 8 – Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi viết: "Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?". Đứng trên lập trường của nhân dân, dưới ánh sáng của nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đau đớn, phẫn uất. Trước tòa án nhân nghĩa, âm mưu và hành động của giặc Minh không thể dung tha.

Vẫn bằng điểm tựa ấy, nhà văn đã dựng lại bức tranh lịch sử đầy tráng lệ, hào hùng về quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xuyên suốt phần tái hiện lại quá trình ấy, nhân nghĩa vẫn là tư tưởng soi đường và nó được đẩy thành:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Đại nghĩa – chí nhân được hiện thân qua hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi – vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng bởi nhân nghĩa mà Người đã vượt qua bao gian khổ, nuốt căm hờn và nung nấu ý chí đấu tranh. Để từ đó ngọn đuốc nhân nghĩa chói ngời làm nên những trận đánh liên tiếp, rung chuyển cả đất trời. Người đọc cảm nhận được khí thế hừng hực, ngút ngàn của quân ta được đặt trong thế tương phản đối lập với sự thất bại thảm hại nhục nhã, ê chề kẻ địch.

Ta sĩ khí đã hăng/ quân thanh càng mạnh, càng đánh quân ta đã hăng lại càng hăng. Địch mới mấy trận đầu mà đã nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân thì rồi sau này có tiếp thêm quân chi viện cũng cứ thế mà nối tiếp nhau những thất bại. Cảnh thảm hại của kẻ thù trên chiến trường là minh chứng hùng hồn cho kết cục làm trái với nhân nghĩa luân thường. Chứng cớ trong quá khứ còn ghi:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Giờ đây lịch sử lặp lại, thậm chí có phần thê thảm hơn:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Đó là cái giá phải trả cho những kẻ làm việc trái với nhân nghĩa cũng chính là công lao to lớn của quân điếu phạt Lam Sơn đã thành công trong việc lo trừ bạo để cho đất nước thanh bình, dân chúng được an yên. Chiến thắng ấy là tất yếu, là chiến thắng của tinh thần nhân nghĩa, của đội quân nhân nghĩa.

Và quân đội Lam Sơn rất xứng đáng là đội quân nhân nghĩa. Bởi cách hành xử đối với kẻ thua cuộc của tướng sĩ Lam Sơn đầy tính nhân văn, là việc làm chưa từng thấy xưa nay: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Vậy hóa ra nhân nghĩa đâu chỉ bởi cho dân mình yên ổn, mà còn tạo cơ hội sống cho kẻ thù khi chúng thua cuộc.

Việc cấp cho chúng năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa… khiến giặc chẳng những thua trong đau đớn, nhục nhã mà còn thêm sợ hãi, nể phục hơn. Nhân nghĩa là cao thượng, bao dung. Mãi sau này, khi giặc Mĩ thua ta cũng được cấp nơi ăn ở, máy bay để chúng trở về nước. Phải chăng nó bắt nguồn từ truyền thống sâu xa, giàu tính nhân nghĩa có từ thời Lam Sơn đại thắng?

Có thể thấy Nhân nghĩa là tư tưởng tiềm ẩn mà có người gọi là "mỏ quặng quý" phải khai thác, đào sâu, còn cái lộ thiên là lòng yêu nước, thương dân. Thật vậy, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn chặt với tư tưởng trung quân ái quốc, "dân vi bản" [lấy dân làm gốc]. Lòng yêu nước thương dân là hiện thực hóa, cụ thể hóa cho tinh thần nhân nghĩa sáng ngời của Ức Trai.

Bởi vậy, mới có quân điếu phạt lo cho dân yên, mới có chân lý độc lập chủ quyền để đập tan ý đồ xâm lăng của kẻ xấu, mới có một bản cáo trạng đanh thép đối với giặc Ngô đã chà đạp, tàn nhẫn với nhân dân ta và mới có một chặng đường gian nan mà vẻ vang của nhân dân bốn cõi chống lại kẻ thù. Lòng yêu nước thương dân đã mang tới một tinh thần nhân nghĩa giàu tính nhân văn, biểu hiện cao cả của chủ nghĩa nhân đạo, vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc, cũng là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn sau trong văn chương trung đại.

Nguyễn Trãi - Ức Trai đã ra đi trong một nỗi oan khiên thảm khốc, đau đớn, xót xa xé lòng… đó là những cảm xúc của bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến ông. Chỉ có thể là tư tưởng nhân nghĩa cả đời mà ông theo đuổi, cả đời ông cống hiến, xả thân đã thấm nhuần non sông, soi tỏ biết bao thế hệ con cháu Việt Nam thì chúng ta mới có cảm xúc trào dâng nghẹn ngào đến như vậy. Và mỗi lần như thế, cũng chỉ cần đọc lại Đại cáo bình Ngô để thêm một lần thấu hiểu giá trị to lớn mà tinh thần nhân nghĩa Ức Trai để lại cho muôn đời.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Tư tưởng nhân đạo là tư tưởng xuyên suốt bài thơ Bình Ngô Đại Cáo. Với tư tưởng nhân văn này đã nâng tầm giá trị bài thơ lên rất cao. Để phân tích đúng tư tưởng nhân nghĩa bình ngô đại cáo, các em hãy tham khảo bài phân tích dưới đây.

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 – 1442, ông sinh ra trong bối cảnh nhà Trần suy yếu và bị nhà Hồ cướp ngôi. Ông làm quan ngự sử đài chính chưởng, sau đó nhà Minh xâm lược lật đổ nhà Hồ, ông bị bắt sang Trung Quốc, phiêu dạt 10 năm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và làm quan lần 2 dưới thời nhà Lê. Ông không chỉ là anh hùng dân tộc được cả thế giới biết tới, ông còn là một nhà thơ lớn với những bài viết đậm sắc chính trị và giá trị nhân đạo xuyên suốt trong các tác phẩm. Trong đó, Phân tích tư tưởng nhân nghĩa bình ngô đại cáo để thấy phẩm Bình Ngô Đại Cáo thấm đẫm tư tưởng nhân nghĩa.

  • Luận điểm 1: Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa

Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn với tư tưởng lớn đi trước thời đại cộng với tấm lòng suốt đời vì nước vì dân, nên ông đã nhìn rõ những nỗi khổ của dân, hiểu được giá trị nhân đạo lúc này là gì. Trong tác phẩm bình ngô đại cáo, tư tưởng nhân đạo ở đây xuất phát từ quan niệm nho giáo: Đó là mối quan hệ người với người, dựa trên cơ sở tình thương. Con người yêu thương, nâng đỡ nhau. Trong hoàn cảnh đất nước bấy giờ tư tưởng nhân đạo chính là làm cho cuộc sống của nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc và vì dân mà dám đứng lên tiêu diệt, trừ bạo giặc ngoại xâm. Hiểu được đúng giá trị nhân đạo và đặt đúng trong hoàn cảnh thì chỉ có thể là những bậc hiền tài trong thiên hạ như Nguyễn Trãi mà thôi. Vừa có tấm lòng của một nhà thơ, vừa có khí tiết của một người anh hùng, hội hội tụ đầy đủ cả về văn lẫn võ, hiếm có được một nhân tài kiệt xuất nào xuất chúng như Nguyễn Trãi.

Tư tưởng nhân đạo của ông rất tiến bộ, đi trước thời đại và đặc biệt phù hợp với tinh thần của thời đại. Tư tưởng nhân đạo có rất nhiều cách để thể hiện, nhưng quan trọng nó phải phù hợp với hoàn cảnh mới có giá trị.

  • Luận điểm 2: Những dẫn chứng thể hiện Tư tưởng nhân đạo trong bình ngô đại cáo

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa bình ngô đại cáo – Trong tác phẩm bình ngô đại cáo, tư tưởng nhân đạo xuyên suốt tác phẩm và là kim chỉ nam để Nguyễn Trãi sáng tác. Theo đó, tư tưởng đó thể hiện ở sự khẳng định chủ quyền độc lập của đất nước. Đất nước ta luôn bị giặc lâm le, xâm lược và chiếm nước. Ông đã nhìn thấu sự tàn bạo, khốn nạn  của kẻ thù. Một lần nữa, ông khẳng định nước Đại Việt là của dân con Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Khi đã khẳng định được tư tưởng nhân đạo: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo, ông thêm một lần khẳng định về chủ quyền, độc lập dân tộc. Đứng trên lập trường chính nghĩa, ông khẳng định bằng một loạt bằng chứng thuyết phục đó là nên văn hiến, lịch sử của dân tộc từ thời vua Triệu, Đinh, Lý, Trần và triều đại của chúng ta đã có từ rất lâu cùng với những phong tục tập quán lâu dài, phân chia rõ ràng. Đặc biệt, ông so sánh sự phát triển của các triều đại chúng ta với triều đại trung hoa, một lần nữa khẳng đình chủ quyền dân tộc và sự sánh ngang với các triều đại trung hoa. Đây chính là khẳng định một chân lí hiển nhiên không thể chối cãi. Nước láng giềng có triều đại nào thì nước Đài Việt cũng có những triều đại ấy. Dân con Đại Việt cũng có những nền văn hóa bản sắc riêng biệt không hề bị pha lẫn. Qua từng câu thơ càng thấy niềm tự hào dân tộc của  Nguyễn Trãi, những luận điểm sắc bén khiến kẻ thù cũng phải giật mình, bẽ bàng, còn con dân Đại Việt thì hả hê, tự hào.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa bình ngô đại cáo – Đây cũng chính là tiền đề cơ sở của tư tương nhân nghĩa, bởi khi ta xác định được chủ quyền dân tộc ta mới có những hành động để thực thi, đường đi mới đúng đắn và đuổi kẻ thù ra khỏi đất nước. Đặc biệt, chúng ta cũng khẳng định: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”, để kẻ thù biết rõ, thời thế sinh hào kiệt, dân Đại Việt rất nhiều người tài giỏi, không dễ gì mà xâm lược được.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc

Nguyễn Trãi tiếp tục đưa ra những tội ác của giặc, tội ác trời không tha , đất không dung. Chúng là con quỷ chứ không phải con người . Chúng coi nhân dân ta chỉ là cỏ rác, hành hạ, giết chóc không ghê tay. Tội ác giết người, coi người là cỏ rác, sưu cao, thuế dầy, bóc lột sức lao động… không gì là chúng không thể. Càng đọc đến đây chúng ta, những độc giả của thế kỷ 21 càng cảm thấy rùng mình, đỏ mặt, ghê tởm và căm hận. Nhân dân ta đã có những tháng ngày kinh khủng như thế, có khác gì khủng bố, có khác gì là sống không bằng chết. Giặc đã dày xéo dân ta ngang ngược vậy thì làm sao mà dân có thể chịu được, ai có thể chịu nỗi thống khổ này ngàn ngăm, ngàn đời, ngàn kiếp!?

Vậy thì chỉ có cách vùng lên, trừ bạo cho dân mới là đường đi đúng đắn nhất. Dân đen khổ cực, trí thức hẹn hẹp không biết làm gì để cứu vớt cuộc đời mình, để cuộc đời bị dày vò trong tay kẻ thù, chúng cho sống được sống, chúng cho chết phải chết, bản thân như con kiến, con bọ chúng thích dẫm đạp sao cũng được. Cùng là kiếp người mà sao khổ và cùng cực đến vậy!? Bởi vậy, những người có trí thức, có tài như Nguyễn Trãi sao có thể không đau khi dân ta cùng chung dòng máu, màu da, cùng uống nước một nguồn lớn lên có thể ngồi im. Phải hành động thôi.

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Những người anh hùng như Nguyễn Trãi đau nỗi đau của dân, nhìn thấy dân bị thiêu sống dưới ngọn lửa hung tàn, bị chôn sống dưới hầm sao có thể an lòng. Ở núi lam sơn ấy, chốn hoang vu nương mình Nguyễn trãi đau lòng nhức ốc, không buồn ăn, dù phải chịu nếm mật nằm gai cũng không nền hà. Trong trái tim chỉ có một nỗi cứu nước nhà, dù có khổ thế nào, dù hoàn cảnh khắc nghiệt thế nào cũng phải trừ bạo cho dân.

Tuy nhiên, ngay cả trong lúc chiến đấu trừ bạo thì tư tưởng nhân đạo cũng luôn được đề cao:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Sau bao năm nếm mật nằm gai quân ta cũng đã ngày càng lớn mạnh, đến lúc phải ra biển lớn, báo thù và đánh đuổi giặc ngoại xâm. Toàn dân một lòng đoàn kết, đem sức mạnh thể chất tinh thần để chống lại bọn cuồng Minh. Bởi đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, đánh đuổi kẻ thù và trả lại sự an cho nhân dân vậy nên từ yếu ớt ta chuyển sang chủ động khiến giặc không kịp trở tay. “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”.

  • Luận điểm 3: Giá trị nhân đạo

Dẫu vậy, chúng ta cũng không tàn ác như kẻ thù. Chúng ta luôn đặt vấn đề nhân đạo lên đầu nên chỉ đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại. Kẻ thù bắt đầu bộc lộ ham sống sợ chết, đe hèn, tìm cách để thoát thân. Chiến trường máu lạnh , máu chảy thành sông, thây chất đầy đường, kẻ thù khiếp vía vỡ mật,… nhưng nhìn chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa quân ta lại lập tức đồng ý. Đây chính là giá trị nhân đạo cao cả mà chỉ có quân và dân ta mới làm được. Nếu họ đã tham sống sợ chết, b iết quay đầu là bờ thì ta hãy cho họ một đường sống. Đây là hành động hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù. Chỉ có nhân đạo mới có thể kết thúc chiến tranh, mới có thể chinh phục lòng người. Nếu cứ chém giết nhau mãi mãi thì bao giờ chiến tranh mới kết thúc!? Quân minh tan tác chết sạch dưới quân ta, nếu quân ta tàn ác không tha một ai thì chắc chắn sẽ còn những quân Minh 1, quân Minh 2 khác sang để xâm chiếm và đòi nợ má. Nếu chúng ta hành động tàn ác như kẻ thú há phải chúng ta cũng vô nhân tính không khác gì chúng!? Vậy nên, cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục vừa là điều kiện cho dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm gian lao chiến đấ. Đồng thời cũng là cơ hội để triều đình xây dựng lại đất nước vững mạnh. Bởi Nguyễn Trãi mới viết: “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.

Đây cũng chính là cách thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung quốc. Nếu oán thù trả bằng oán thù thì mãi mãi không dứt. Nhưng lấy hiếu nghĩa để trả thì vừa có lợi cho ta mà có lợi cho người, lấy oán mà trả ân thì sẽ giao hảo, không còn chiến tranh.

Bình ngô đại cáo là bài thơ về chính trị hay cũng chính là tấm lòng của Nguyễn Trãi dành cho đất nước. Đặc biệt giá trị nhân văn cao cả trong tác phẩm chính là tiền đề để hóa giải những đau khổ, hận thù và mang lại sự bình an cho nhân dân.  Nguyễn Trãi xứng đáng là người anh hùng, nhà thơ lớn của đất nước, nếu không có những hào kiệt như ông thì có lẽ, khó có một nước Việt Nam như bây giờ. Những giá trị về tinh thần mà Nguyễn Trãi để lại vô cùng quý báu, nó giúp chúng ta hiểu hơn về những chặng đường gian khổ mà đất nước đã trải qua để thêm yêu, tự hào và sống, cống hiến hết mình cho tổ quốc.

>> Xem thêm: Bài phân tích đoạn 1 Bình ngô đại cáo xuất sắc giúp học sinh đạt điểm cao

Video liên quan

Chủ Đề