Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Tiền tệ là đồng tiền được luật pháp quy định có các chức năng hợp pháp cho nền kinh tế tại quốc gia đó. Các quốc gia khác nhau có những đồng tiền pháp quy khác nhau và được liên kết bằng tỉ giá quy đổi. Lưu thông tiền tệ là một hoạt động cần thiết để kết nối các thị trường. Tiền tệ sẽ được lưu thông theo một quy luật lưu thông tiền tệ thống nhất giữa các quốc gia với mục đích giao dịch chung.

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Các chức năng của tiền tệ bao gồm làm thước đo giá trị, làm phương tiện lưu thông, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh toán và là tiền tệ thế giới. Với mỗi chức năng, tiền tệ đều giữ vai trò quan trọng đối với sự vận hành của nền kinh tế.

Chức năng đầu tiên thường thấy nhất của tiền tệ là được dùng để biểu thị và làm thước đo giá trị của hàng hóa. Hàng hóa sẽ được đo lường giá trị bằng tiền tệ giống như cách chúng được cân đo bằng các đơn bị đo lường khối lượng. Giá trị hàng hóa được đo lường bằng tiền tệ được gọi là giá cả. Giá cả của hàng hóa chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: giá trị hàng hóa, giá trị tiền tệ và quan hệ cung – cầu hàng.

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Tiền tệ có chức năng đo lường giá trị

>>> Xem thêm: Quy luật kinh tế là gì? Các quy luật cơ bản, tính chất và ý nghĩa

Trong quá trình trao đổi hàng hóa, tiền tệ đóng vai trò như phương tiện giúp lưu thông hàng hóa. Chức năng lưu thông của tiền tệ được diễn ra theo cấu trúc hàng – tiền – hàng. Tức là hàng hóa sẽ được chuyển hóa thành tiền tệ, và tiền tệ lại được lưu thông thành hàng hóa. Ở mỗi thời kỳ nhất định, lượng tiền cần thiết để đảm bảo lưu thông hàng hóa sẽ thay đổi theo quy luật lưu thông tiền tệ của thị trường.

Theo Các Mác, trong cùng thời gian và không gian, lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính bằng thương của tổng giá cả hàng hóa chia số vòng lưu thông của tiền tệ. Tổng giá cả hàng hóa được tính theo công thức giá trung bình của hàng hóa nhân với tổng số lượng hàng hóa được lưu thông. Mức độ tiền tệ hóa trên thị trường càng cao thì chức năng và quy luật lưu thông tiền tệ càng được thể hiện rõ.

Khi được rút khỏi thị trường và được lưu trữ, lúc này tiền tệ đang thực hiện chức năng làm phương tiện cất giữ. Bản chất của tiền tệ là phương tiện đại biểu cho của cải của xã hội với hình thái giá trị. Vì vậy, cất giữ tiền tệ cũng đồng nghĩa với việc cất giữ của cải. Việc cất giữ giúp tiền tệ duy trì sự thích nghi linh hoạt với nhu cầu tiền tệ của thị trường. 

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Chức năng cất giữ của tiền tệ

>>> Xem thêm: Quy luật cung cầu là gì? Những điều cơ bản cần biết

Phương tiện thanh toán là chức năng dễ thấy nhất của tiền tệ với các biểu hiện được diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Khi thực hiện chức năng thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của lưu thông mà trở thành một bộ phận bổ sung. Quá trình lưu thông của tiền tệ được diễn ra độc lập với sự vận hành của hàng hóa. Tiền tệ phải có một sức mua ổn định mới có thể thực hiện chức năng thanh toán này.

Khi thực hiện các chức năng trên ở phạm vị thị trường bên ngoài quốc gia, tiền tệ sẽ thực hiện chức năng trở thành tiền tệ thế giới. Tiền tệ được sử dụng làm tiền tệ thế giới là tiền vàng hoặc các đồng tiền được công nhận giá trị trên nhiều quốc gia. Các đồng tiền như Đô la Mỹ, Bảng Anh hoặc đồng Euro là các đồng tiền thực hiện chức năng tiền tệ thế giới rõ rệt trên thị trường kinh tế hiện nay.

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Tiền tệ thế giới

Lưu thông tiền tệ là tính chất lưu thông trên thị trường nhằm định giá cho hàng hóa và dịch vụ. Việc lưu thông của tiền tệ được thực hiện tự do theo nhu cầu của các chủ thể tham gia việc trao đổi hàng hóa trong nền kinh tế. Các dòng lưu thông trước đây được thực hiện thông qua tiền mặt. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các dòng lưu thông không sử dụng tiền mặt dần trở nên phổ biến.

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Lưu thông tiền tệ

Quy luật lưu thông tiền tệ là những quy luật được xây dựng và thực hiện nhằm kiểm soát sự lưu thông của tiền tệ trên thị trường. Nội dung của quy luật này tập trung vào quy định lượng tiền cần thiết cho việc lưu thông hàng hóa. Quy luật lưu thông tiền tệ là nhân tố chủ yếu chi phối quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế. 

Công thức của quy luật lưu thông tiền tệ được tính bằng mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa lượng tiền cần thiết để thực hiện chức năng lưu thông và tổng giá cả trong lưu thông. Mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa lượng tiền cần thiết này với tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ cũng là nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ. Theo đó, quy luật lưu thông tiền tệ có thể được biểu diễn theo công thức: MD= P.Q/V, trong đó:

  • MD là số lượng tiền cần thiết để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông của tiền tệ.
  • P là mức giá cả một hàng hóa.
  • Q là tổng số lượng hàng hóa được sử dụng trong lưu thông.
  • V là trung bình số vòng lưu thông của tiền tệ.

Lạm phát là sự tăng mức giá của hàng hóa và hiện tượng mất giá của đồng tiền pháp quy. Khi lượng cung trong thị trường không kịp sản xuất để đáp ứng với lượng cầu của người tiêu dùng, đây là xuất phát điểm của lạm phát. Khi sự chênh lệch này ngày càng rõ rệt, giá cả của hàng hóa sẽ tăng cao, dẫn đến tình trạng mất giá của đồng tiền. 

Quy luật lưu thông tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ là quy định lượng tiền cần thiết để đảm bảo lưu thông trong thị trường. Khi đồng tiền pháp quy mất giá, thị trường sẽ cần nhiều lượng tiền hơn để duy trì lưu thông hàng hóa. Quy luật trước đó của thị trường sẽ bị phá vỡ và được thay thế bằng một quy luật mới phù hợp với tình hình đương thời của nền kinh tế.

Lưu thông tiền tệ là một hoạt động cần thiết cho quá trình trao đổi hàng hóa trong thị trường. Sự lưu thông của tiền tệ sẽ tuân thủ một quy luật lưu thông tiền tệ nhất định. Quy luật này sẽ bị phá vỡ và thay bằng một quy luật lưu thông tiền tệ khác khi thị trường xảy ra tình trạng lạm phát. Trên đây, bài viết được chia sẻ bởi công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam.

[VPLUDVN] Theo C.Mác, tiền tệ có năm chức năng sau đây: – Thước đo giá trị Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị.

Theo C.Mác, tiền tệ có năm chức năng sau đây:

– Thước đo giá trị

Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hóa không cần thiêt phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó trong ý tưởng. Sở dĩ có thế làm được như vậy vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Hay nói cách khác, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.

Giá cả hàng hóa chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau đây:

+ Giá trị hàng hóa.

+ Giá trị của tiền.

+ Quan hệ cung – cầu về hàng hóa.

Nhưng vì giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả nên trong ba nhân tố nêu trên thì giá trị vẫn là nhân tố quyết định giá cả.

Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá cả của hàng hóa. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Chẳng hạn ở Mỹ, tiêu chuẩn giá cả của 1 đồng đôla có hàm lượng vàng là 0.736662gr, ở Pháp 1 đồng frăng hàm lượng vàng là 0,160000gr, ở Anh 1 đồng Fun St’zelinh có hàm lượng vàng là 2,13281 gr.. .Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng; làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hóa khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hóa tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ. 1 đôla vẫn bằng 10 xen.

– Phương tiện lưu thông

Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thông hàng hóa đòi hỏi phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hóa.

Công thức lưu thông hàng hóa là: H – T – H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.

Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thỏi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương lện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giám bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Nhà nước có thể in tiền giấy ném vào lưu thông. Nhưng vì bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của nén vàng, nên nhà nước không thể tùy ý in bao nhiêu tiền giấy cũng được, mà phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy. Quy luật đó là: “việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền giấy đó tượng trưng, lẽ ra phải lưu thông thực sự”. Khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần cho lưu thông, thì giá trị của tiền tệ sẽ bị giảm xuống, tình trạng lạm phát sẽ xuất hiện.

Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

-Phương tiện thanh toán

Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng… Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hóa. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh tóan được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.

Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì nên làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng hóa, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.

Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.

b) Quy luật lưu thông tiền tệ và vấn đề lạm phát

Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định.

( Mác cho rằng, số lượng tiền tệ cần cho lưu thông do ba nhân tố quy định: số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, giá cả trung bình của hàng hóa và tốc độ lưu thông cua những đơn vị tiền tệ cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối với khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ biến là: Tổng số giá cả của hàng hóa chia cho ô vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong một thời gian nhất định.

+ Khi tiền mới chỉ thực hiện chức năng là phương tiện lưu thong, thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thong được tính theo công thức :

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

Trong đó:

M: là phương tiện cần thiết cho lưu thông

P: là mức giá cả

Q: là khối lưojwng hàng hóa đem ra lưu thông

V: là số vòng luân chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

+ Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì số lượng cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:

Ví dụ quy luật lưu thông tiền tệ

– Lạm phát: Khi vàng và bạc được dùng làm tiền thì số lượng tiền vàng hay bạc được thích ứng một cách tự phát với số lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác. Tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị, hay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng phương tiện lưu thông, bản thân tiền giấy không có giá trị thực, do đó số lượng tiền giấy phải bằng số lượng tiền vàng hoặc bạc mà nó tựơng trưng. Khi số lượng tiền giấy đưa vào lưu thông vượt quá số lượng tiền vàng hay bạc mà nó đại diện thì sẽ dẫn đến hiện tượng lạm phát.

Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, đó là hiện tượng khủng hoảng tiền tệ, nhưng nó là sự phản ánh và thể hiện trạng thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Có nhiều quan niệm khác nhau về lạm phát, nhưng đều nhất trí rằng: Lạm phát là tình trạng mức giá chung của toàn bộ nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định.

Căn cứ vào mức giá tăng lên, có thể chia lạm phát thành: lạm phát vừa phải (chỉ số giá cả tăng dưới 111% năm), lạm phát phi mã (trên 10%/năm) và siêu lạm phát (chỉ số giá cả tăng lên hàng trăm, hàng nghìn lần và hơn nữa). Khi lạm phát xảy ra sẽ dẫn tới sự phân phối lại 10 nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư: người nắm giữ hàng hóa, người đi vay được lời; người có thu nhập và nắm giữ tài sản bằng tiền, người cho vay bị thiệt (do sức mua của đồng tiền giảm sút); khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản xuất kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo mó biến dạng, tâm lý người dân hoang mang…

Lạm phát là hiện tượng gây nhiều tác động tiêu cực tới kinh tế và xã hội, bởi vậy chống lạm phát được xem là một trong những mục tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới. Để ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, cần phải tìm hiểu đúng nguyên nhân dẫn tới lạm phát, đánh giá đúng dạng lạm phát để có cách xử lý tốt hơn.

Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: ; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: . Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng Việt Nam.