Vì sao bị nhiễm hp dạ dày

  • Kháng sinh [các phác đồ khác nhau] cộng với một thuốc ức chế bơm proton

  • Để khẳng định việc điều trị khỏi, sử dụng xét nghiệm hơi thở ure, xét nghiệm kháng nguyên trong phân, hoặc nội soi đường tiêu hóa trên

Bệnh nhân có biến chứng [ví dụ: loét, ung thư] cần phải được điều trị diệt vi khuẩn. Diệt vi khuẩn H. pylori thậm chí có thể chữa khỏi được một số trường hợp u lympho thể MALT [nhưng không phải với các bệnh ung thư liên quan đến nhiễm trùng khác]. Điều trị nhiễm trùng không triệu chứng vẫn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên vẫn khuyến nghị điều trị do phát hiện vai trò của H. pylori trong ung thư. Vắc xin, trong cả phòng ngừa và điều trị [tức là dưới dạng bổ trợ cho điều trị bệnh nhân bị nhiễm bệnh] đang được phát triển.

  • Thuốc ức chế bơm proton [lansoprazole 30 mg 2 lần mỗi ngày, omeprazole 20 mg 2 lần mỗi ngày, pantoprazole 40 mg 2 lần mỗi ngày, rabeprazole 20 mg 2 lần mỗi ngày, hoặc esomeprazole 40 mg mỗi ngày một lần]

  • Bismuth subsalicylate [524 mg 4 lần mỗi ngày]

  • Metronidazole 250 mg 4 lần mỗi ngày

  • Tetracycline 500 mg 4 lần mỗi ngày

Liệu pháp bộ ba loại thuốc là phác đồ thường được kê đơn thường xuyên nhất để điều trị nhiễm trùng H. pylori. Các loại thuốc uống sau đây được sử dụng trong 10 đến 14 ngày:

  • Thuốc ức chế bơm proton [lansoprazole 30 mg 2 lần mỗi ngày, omeprazole 20 mg 2 lần mỗi ngày, pantoprazole 40 mg 2 lần mỗi ngày, rabeprazole 20 mg 2 lần mỗi ngày, hoặc esomeprazole 40 mg mỗi ngày một lần]

  • Amoxicillin [1 g 2 lần mỗi ngày] hoặc metronidazole 250 mg 4 lần mỗi ngày

  • Clarithromycin [500 mg 2 lần mỗi ngày]

Tuy nhiên, ở nhiều vùng trên thế giới, tỷ lệ kháng clarithromycin đang tăng lên và khả năng thất bại của liệu pháp bộ ba loại thuốc ngày càng cao. Do đó, phác đồ này không được khuyến cáo để điều trị ban đầu, trừ khi ≥ 85% các chủng H. pylori tại địa phương được xác định là nhạy cảm hoặc phác đồ này được biết là vẫn có hiệu quả trên lâm sàng ở khu vực địa phương đó.

Những bệnh nhân bị nhiễm vi khuẩn này có loét dạ dày hoặc tá tràng cần phải tiếp tục dùng thuốc ức chế axit trong ít nhất 4 tuần. Diệt vi khuẩn có thể được xác nhận bằng xét nghiệm hơi thở urea, xét nghiệm kháng nguyên trong phân, hoặc nội soi đường tiêu hóa trên được thực hiện sau khi kết thúc điều trị ≥ 4 tuần. Việc xác định là đã loại bỏ vi khuẩn cần phải tiến hành ở tất cả các bệnh nhân được điều trị nhưng bắt buộc ở những bệnh nhân có biểu hiện nghiêm trọng của nhiễm H. pylori [ví dụ: loét chảy máu]. Loét chảy máu tái phát rất có thể xảy ra nếu nhiễm trùng không được loại bỏ.

Điều trị được lặp lại nếu H. pylori không được diệt trừ. Nếu hai liệu trình điều trị không thành công, một số tác giả khuyên dùng nội soi để lấy bệnh phẩm nuôi cấy nhằm kiểm tra độ nhạy.

  • 1. Yang JC, Lin CJ, Wang HL, et al: Liệu pháp kép liều cao ưu việt hơn liệu pháp đầu tay hoặc liệu pháp cứu hộ tiêu chuẩn đối với nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori. Clin Gastroenterol Hepatol 13[5]:895–905.e5, 2015. doi: 10.1016/j.cgh.2014.10.036.

  • 3. Fiorini G, Zullo A, Vakil N, et al: Liệu pháp bộ ba Rifabutin có hiệu quả ở những bệnh nhân có các chủng Helicobacter pylori đa kháng thuốc. J Clin Gastroenterol 52[2]:137–140, 2018. doi: 10.1097/MCG.0000000000000540.

Không phải tất cả các trường hợp dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp đều là bệnh lý. Không phải tất cả người bệnh Test Hp dương tính đều cần điều trị và cũng không phải cả người bệnh nhiễm vi khuẩn Hp cũng tiến triển thành ung thư. Tuy nhiên, việc hiểu chưa đúng về Hp khiến nhiều người bệnh lo lắng quá mức hoặc chủ quan và không tuân thủ điều trị. Nhận thức đúng về nhiễm khuẩn HP dạ dày sẽ giúp người bệnh điều trị và phòng ngừa biến chứng hiệu quả, hợp lý.

1. Dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp là gì?

Vi khuẩn Hp hay Helicobacter pylori là một loại vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể và sinh sống trong dạ dày con người. Chung thường khu trú trong lớp nhầy hang vi, thân vị dạ dày. Để tồn tại được trong môi trường khắc nghiệt – dịch vị dạ dày, chúng tiết ra Enzyme Urease để trung hòa nồng độ acid của dạ dày.

Sau nhiều năm, sự phát triển và hoạt động của vi khuẩn Hp có thể dẫn đến các vết loét ở niêm mạc dạ dày hoặc tá tràng. Trong một số trường hợp, nhiễm trùng có thể dẫn đến ung thư dạ dày rất nguy hiểm.

Dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp là tình trạng rất phổ biến, gây ảnh hưởng đến khoảng 50% dân số thế giới. Ở Việt Nam, tình trạng test Hp dương tính chiếm khoảng trên 70% dân số. Tuy nhiên, hơn 80% những người bị nhiễm khuẩn Hp không có triệu chứng và cũng không gây bất kỳ thương tổn nào cho dạ dày. Do đó, không phải tất cả trường hợp mắc Hp dạ dày cũng cần phải điều trị.

Dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp có thể gây viêm, loét và ung thư dạ dày

2. Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn Hp

Test Hp dương tính được cho là nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh lý viêm – loét dạ dày, tá tràng nguy cơ ung thư dạ dày.

Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn Hp tấn công biểu mô dạ dày, đặc biệt là khoảng gian bào. Vi khuẩn tiết ra men urease rất mạnh, tạo ra một lượng lớn amoniac có khả năng trung hòa môi trường acid quanh chúng. Ngoài ra, amoniac còn gây độc trực tiếp đối với tế bào niêm mạc dạ dày và làm tổn thương niêm mạc dạ dày.

Song song với đó, sự hoạt động của vi khuẩn Hp làm giảm chất nhầy bảo vệ khiến acid dịch vị tác động trực tiếp lên thành dạ dày. Dưới sự phối hợp của nhiều yếu tố trên gây nên tình trạng viêm – loét dạ dày, tá tràng.

Các vết loét có thể chảy máu gây nhiễm trùng hoặc làm cản trở thức ăn di chuyển qua hệ thống tiêu hóa. Từ đó dẫn đến nhiều vấn đề khác nhau ở hệ thống tiêu hóa.

2. Dấu hiệu nhận biết dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp

Đại đa số trường hợp test Hp dương tính không gây triệu chứng hay các dấu hiệu nhận biết cụ thể nào. Ngoài ra, một số trường hợp người bệnh có thể có khả năng chống lại tác hại của vi khuẩn Hp.

Khi nhiễm trùng gây tổn thương hệ tiêu hóa, dấu hiệu phổ biến nhất là đau bụng. Đặc biệt là khi dạ dày trống rỗng và ban đêm hoặc vài giờ sau ăn. Cơn đau thường âm ỉ, có thể diễn ra trong vài phút hoặc kéo dài hàng giờ. Một số dấu hiệu khác người bệnh có thể gặp phải bao gồm:

– Trướng bụng, đầy hơi.

– Ợ nóng, ợ hơi, ợ chua

– Buồn nôn và nôn.

– Chán ăn, ăn nhanh no, ăn không ngon miệng.

– Sụt cân.

Khi vết loét gây chảy máu, người bệnh cần đến bệnh viện ngay khi thấy xuất hiện các dấu hiệu:

– Phân lẫn máu, có màu đỏ sậm hoặc đen.

– Cơ thể mệt mỏi.

– Khó thở, hoa mắt, chóng mặt hoặc ngất xỉu.

– Da xanh xao.

– Nôn ra máu hoặc chất dịch như bã cafe.

– Bụng đau dữ dội.

Ngoài ra, mặc dù không phổ biến nhưng test Hp dương tính có thể gây ung thư dạ dày. Trong thời gian đầu, người bệnh thường xuất hiện triệu chứng ợ chua. Theo thời gian, một số dấu hiệu có thể xuất hiện như:

– Buồn nôn và nôn.

– Đau hoặc sưng bụng.

– Không có cảm giác đói hoặc cảm thấy no nhanh mặc dù chỉ ăn một lượng nhỏ thức ăn.

– Sụt cân nhanh.

3. Nguyên nhân dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp

Hiện nay, nguyên nhân chính xác dẫn đến test Hp dương tính vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, người bệnh có thể nhiễm vi khuẩn Hp từ thức ăn, nước uống, dụng cụ ăn uống. Tình trạng này thường phổ biến ở các cộng đồng hoặc quốc gia thiếu nước sạch và không có hệ thống thoát nước thải đạt chuẩn. Ngoài ra, bạn cũng có thể nhiễm vi khuẩn Hp khi tiếp xúc trực tiếp qua nước bọt hoặc các chất dịch cơ thể của người bệnh hay qua các thủ thuật tiêu hóa như nội soi mũi họng, nội soi tiêu hóa…

Các yếu tố rủi ro có thể làm tăng nguy cơ test Hp dương tính:

– Môi trường sống đông đúc, chật hẹp và không đảm bảo vệ sinh.

– Không có nguồn nước sạch.

– Sống ở các các quốc gia chậm phát triển, đang phát triển hoặc có điều kiện vệ sinh kém.

– Sống chung với người test Hp dương tính.

Môi trường sống không đảm bảo vệ sinh làm tăng nguy cơ test Hp dương tính

4. Nhiễm vi khuẩn Hp ở dạ dày có nguy hiểm không?

Trong trường hợp xuất hiện triệu chứng, nhiễm khuẩn Hp nếu không điều trị có thể dẫn đến một số rủi ro:

– Viêm – loét dạ dày: Men urease và các ngoại độc tố do vi khuẩn Hp tiết ra phá hủy lớp chất nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày khiến acid dịch vị ăn mòn và làm tổn thương các mô gây viêm – loét thành dạ dày.

– Tắc nghẽn: Vi khuẩn Hp gây viêm và hình thành các khối u làm cản trở thức ăn từ dạ dày xuống ruột non. Nếu không điều trị sớm có thể dẫn đến tắc ruột rất nguy hiểm.

– Xuất huyết nội: Tình trạng viêm – loét dạ dày, tá tràng nếu không được kiểm soát tốt sẽ khiến các ổ loét xuyên qua mạch máu gây xuất huyết tiêu hóa.

– Thủng dạ dày: Trong trường hợp nghiêm trọng, loét dạ dày có thể phát triển ăn sâu làm phá vỡ hoàn toàn vách dạ dày gây thủng.

– Viêm phúc mạc: Khi vi khuẩn Hp gây viêm hoặc nhiễm trùng phát triển vào niêm mạc bụng gây viêm phúc mạc. Viêm phúc mạc nếu không được xử lý ngay có thể dẫn đến nhiễm trùng toàn thân gây tử vong hoặc để lại những di chứng rất nặng nề.

– Ung thư dạ dày: chiếm khoảng 1% trường hợp người bệnh test Hp dương tính có nguy cơ bị ung thư dạ dày. Điều đáng buồn là trên 80% người bệnh phát hiện ung thư ở giai đoạn muộn, khi các tế bào ung thư đã di căn đến các cơ quan khác của cơ thể.

5. Chẩn đoán và điều trị vi khuẩn Hp trong dạ dày

5.1. Chẩn đoán dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp

Nếu không xuất hiện triệu chứng hoặc không có dấu hiệu của viêm – loét dạ dày, người bệnh có thể không cần thực hiện test Hp. Tuy nhiên, khi đã có dấu hiệu nhiễm khuẩn hoặc có tiền sử nhiễm khuẩn Hp, người bệnh nên đến bệnh viện để kiểm tra. Nhiễm khuẩn Hp được chẩn đoán thông qua khám sức khỏe và làm các xét nghiệm liên quan.

Ngoài việc kiểm tra tiền sử bệnh lý, các triệu chứng và các loại thuốc đang sử dụng, bác sĩ có thể đề nghị người bệnh làm các xét nghiệm test Hp:

– Xét nghiệm máu: để xác định các kháng thể kháng vi khuẩn HP trong máu. Phương pháp này chỉ chính xác nếu người bệnh chưa từng điều trị vi khuẩn HP trước đây.

– Kiểm tra phân: để xác định dấu hiệu vi khuẩn HP trong phân qua phản ứng miễn dịch huỳnh quang.

– Kiểm tra hơi thở: xác định khí CO2 trong hơi thở thông qua một thiết bị đặc biệt.

– Nội soi đường tiêu hóa trên: Bác sĩ sử dụng ống nội soi có gắn camera từ miệng [hoặc mũi] qua ống thực quản vào dạ dày, tá tràng. Đây là phương pháp test Hp duy nhất vừa chẩn đoán được tình trạng nhiễm khuẩn, vừa xác định được vị trí và mức độ thương tổn ở dạ dày.

– Chụp X – quang Bari: chụp x – quang cản quang với barium giúp sát cổ họng và dạ dày để xác định các dấu hiệu nhiễm khuẩn.

– Nuôi cấy: xác định chủng vi khuẩn gây bệnh để xây dựng khác sinh đồ phù hợp.

– Sinh thiết mẫu mô để xác định các dấu hiệu ung thư dạ dày

5.2. Điều trị dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp

Theo các chuyên gia, nếu nhiễm khuẩn Hp không gáy triệu chứng, việc điều trị là không cần thiết. Nhưng nếu nhiễm khuẩn Hp gây viêm, loét dạ dày, người bệnh cần tiêu diệt Hp để chữa lành niêm mạc dạ dày, dòng thời ngăn ngừa viêm – loét tái phát.

Phác đồ điều trị Hp cho người bệnh bao gồm ít nhất 2 loại kháng sinh kết hợp với thuốc kháng tiết acid trong suốt quá trình điều trị. Bởi do vi khuẩn Hp rất dễ kháng thuốc và thuốc kháng sinh dễ bị phân hủy trong môi trường acid dạ dày. Thông thường, việc sử dụng thuốc kháng sinh cần kéo dài từ 7-14 ngày và có thể điều trị duy trì từ 4-8 tuần sau đó để chữa dứt điểm tình trạng viêm – loét dạ dày, tá tràng. Việc sử dụng thuốc kháng sinh có thể có gây những tác dụng phụ như: buồn nôn, đi tiêu phân đen, tiêu chảy, rối loạn vị giác, lưỡi đen và phản ứng cai rượu…

Vi khuẩn Hp có thể bị tiêu diệt hoàn toàn nếu người bệnh tuân thủ phác đồ điều trị và có lối sống lành mạnh. Ngược lại, sau khi kết thúc điều trị, nếu người bệnh không chú ý đến chế độ ăn uống và lối sống hàng ngày như: ăn đồ cay nóng, uống nhiều rượu bia, thường xuyên thức khuya, stress… thì nhiễm khuẩn Hp khó có thể điều trị dứt điểm và tình trạng viêm dạ vẫn sẽ tiếp diễn.

Nhiễm khuẩn Hp có thể điều trị dứt điểm bằng thuốc kháng sinh và lối sống lành mạnh

5.3. Xác định hiệu quả điều trị nhiễm khuẩn Hp

Một tháng sau khi ngừng uống thuốc, người bệnh cần làm test hơi thở để đảm bảo vi khuẩn Hp đã được tiêu diệt hoàn toàn. Người bệnh không được phép dùng bất kỳ loại thuốc kháng sinh trong vòng 4 tuần trước đó. Đồng thời cần phải dừng tất cả các loại thuốc ức chế acid dạ dày kể từ 2 tuần trước khi tiến hành test Hp bằng hơi thở. Bên cạnh đó, người bệnh cần nhịn ăn từ buổi tối hôm trước.

Đây là bài kiểm tra cần thiết, vì có nhiều khả năng vi khuẩn Hp chưa bị loại trừ hoàn toàn sau khi dùng phác đồ điều trị đầu tiên. Nguyên nhân có thể do vi khuẩn Hp kháng các loại thuốc kháng sinh đã dùng hoặc do liều dùng chưa đủ hay chưa đúng cách. Nếu trong trường hợp vi khuẩn Hp vẫn còn tồn tại trong dạ dày, bác sĩ sẽ áp dụng phác đồ điều trị kết hợp nhiều thuốc kháng sinh loại mới.

Khi phát hiện dạ dày nhiễm vi khuẩn Hp, người bệnh cần đến gặp bác sĩ để được tư vấn và xây dựng phác đồ điều trị phù hợp. Điều trị kịp thời vi khuẩn Hp có thể ngăn ngừa nguy cơ gây ra những tổn thương cho dạ dày hay các vấn đề có thể xảy ra như viêm, loét và ung thư dạ dày.

Video liên quan

Chủ Đề