Vì sao xem nông nghiệp lúa nước dẫn tới sự hình thành văn minh của việt nam
Mục lục
Lịch sửSửa đổiTrước đây, các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng sớm nhất của thế giới[2][3][4]. Theo họ, từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch[5]. Show Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã xác định quê hương của lúa nước là vùng đồng bằng sông Dương Tử (Trung Quốc). Sự đồng thuận khoa học hiện nay, dựa trên bằng chứng di truyền học, khảo cổ và ngôn ngữ, là lúa được thuần hóa lần đầu tiên ở lưu vực sông Dương Tử ở Trung Quốc[6][7][8][9] Dựa trên việc nghiên cứu các gen của cây lúa nước, chỉ số quan trọng khi nghiên cứu quá trình thuần hóa ngũ cốc, Vaughan (năm 2008) xác định tất cả các giống lúa nước ngày nay đều có tổ tiên là một giống lúa nước cổ[7] Điều này được hỗ trợ bởi một nghiên cứu di truyền vào năm 2011 cho thấy rằng tất cả các dạng lúa nước châu Á, gồm cả indica (lúa Ấn Độ) và japonica (lúa Nhật Bản), đều phát sinh từ một sự kiện thuần hóa duy nhất đã xảy ra cách đây khoảng 13.500 đến 8.200 năm ở Trung Quốc, từ giống lúa hoang Oryza rufipogon[10]. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, niên đại 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Trường Giang (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science vào năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths (thạch thể lúa) này đã chứng minh rằng từ 9.000 năm trước, dân cư ở vùng đó đã ăn nhiều lúa nước trồng hơn là lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam sông Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9.000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tích Văn hóa Hà Mỗ Độ cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào khoảng 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Bán Pha xưa nhất ở phía Bắc Trung Quốc. Văn hóa Hà Mỗ Độ (5000 TCN - 4500 TCN) đã có những ngôi làng với vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hà Mỗ Độ đã trồng lúa nước, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25–50cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Trường Giang bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước. Sau văn hoá Hà Mỗ Độ, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4.000 - 5.000 năm trước, như Lương Chử, Mã Gia Banh, Quinshanyang, Khuất Gia Lĩnh, Đào Tự, Songze, Dadunze. Năm 2007, di chỉ thành phố cổ diện tích hơn 2,9 km2, niên đại hơn 5.000 năm đã được tìm thấy trong vùng lõi của di tích văn hóa Lương Chử (3.300 - 2.300 TCN). Dấu vết kho lương thực chứa được khoảng 15 tấn gạo. Từ vị trí, sự bố trí và đặc điểm cấu trúc của thành cổ được phát hiện, các chuyên gia tin rằng có những cung điện dành cho giới quý tộc. Năm 2017, các nhà khảo cổ học lại phát hiện một hệ thống thủy lợi có niên đại tới 5.100 năm, quy mô khổng lồ và cổ xưa nhất trên thế giới tính đến thời điểm hiện nay. Công trình dẫn nước quy mô 5.100 tuổi thậm chí còn lâu đời hơn cả phát hiện hệ thống thủy lợi 4.900 năm trước đây của Văn minh Lưỡng Hà. Đây là công trình thủy lợi khổng lồ, có diện tích hơn 300.000 m2, được xây đắp nhân tạo của hoàng thổ dày tới 10,2 mét. Những cư dân cổ đại được cho là đã di dời khoảng 3,3 triệu mét khối đất để xây nên công trình này. Đây là một hệ thống thủy lợi rất phức tạp, gồm nhiều đập nước cao, đập nước thấp, mương, rạch, hào lớn và đê điều để ngăn ngừa lũ lụt, dự trữ nước để tưới tiêu mùa màng trong những đợt hạn hán. Kỹ thuật và quy mô rộng lớn của nó vào loại hiếm trên thế giới. Từ lưu vực sông Trường Giang, lúa nước dần dần được đưa về phía bắc, tới những người nông dân trồng kê ở nền văn hóa Đại Vấn Khẩu, thông qua tiếp xúc mua bán - trao đổi với văn hóa Long Sơn, văn hóa Mã Gia Banh, văn hóa Hà Mỗ Độ. Vào khoảng 4.000 đến 3.800 trước Công nguyên, chúng là một loại cây trồng phụ thường xuyên trong các nền văn hóa Trung - Tạng ở miền bắc Trung Quốc. Nó không thay thế được kê, phần lớn là do điều kiện môi trường khác nhau ở miền bắc Trung Quốc, nhưng nó được trồng cùng với kê ở ranh giới phía nam của các vùng trồng kê. Ngược lại, cây kê cũng được đưa vào các vùng trồng lúa. Tại Việt NamSửa đổiCác cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước[12]. Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9.260-7.620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, cũng như đa số di tích, di vật về văn minh lúa nước tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thì thấy những hạt thóc này có niên đại muộn hơn nhiều so với tuổi ước tính ban đầu, chỉ vào khoảng 4.000 năm trước. Một nghiên cứu đa ngành sử dụng phân tích trình tự bộ gen cây lúa nước chỉ ra rằng lúa nước đã được lan truyền vào Đông Nam Á từ miền nam Trung Quốc, sau một sự kiện nguội lạnh toàn cầu (sự kiện 4,2k) xảy ra khoảng 4.200 năm trước[13] Sự kiện này đã gây ra biến đổi khí hậu ở miền nam Trung Quốc, rất có thể đã khiến mất mùa và buộc cư dân trồng lúa nước ở đây phải di cư tới các vùng khác, bao gồm Đông Nam Á, và khi di cư thì họ cũng mang theo kỹ thuật trồng lúa nước. Văn hoá Phùng Nguyên và văn hóa Đông Sơn (có niên đại khoảng 4.000 năm) ở miền Bắc Việt Nam ngày nay có những điểm gần giống với nền Văn hoá Hà Mỗ Độ tồn tại ở sông Dương Tử cách đây 7.000 năm trước. Cư dân vùng nam Trung Hoa lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt Nam về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân miền bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người trong văn hóa Hà Mỗ Độ trưng bày ở Viện Bảo tàng Hà Mỗ Độ cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là gần với chủng người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa nước trồng. Người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là một bộ phận của văn minh lúa nước. Nền Văn Minh Lúa Nước Việt NamNền văn minh lúa nước đã có cách đây khoảng 10.000 năm trước tại vùng Đông Nam Á và được gọi là nền văn minh cổ đại Việt Nam với 3/4 diện tích là đồi núi, phần lớn người dân sống nhờ chủ yếu vào lao động nông nghiệp. Và cây lúa là một trong những cây nông nghiệp chính có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng chính cây lúa cùng với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên nền văn minh lúa nước Việt Nam.Hãy cùng Làng Tre Việt tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé. Bông lúa trĩu hạt trên cánh đồng Nông nghiệp Việt Nam: Những vấn đề tồn tại11/11/2020 07:00 - Trần Đức Viên Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta phải thừa nhận là, nền nông nghiệp nước ta về cơ bản vẫn là nền sản xuất thô về sản phẩm, thấp về đẳng cấp, tiêu tốn nhiều nguồn lực, ứng dụng KH&CN và cơ giới hóa trong nông nghiệp còn khiêm tốn, sức cạnh tranh với khu vực và thế giới chưa cao; thậm chí, ở một số lĩnh vực còn đi sau thế giới khá xa. Các nguyên nhân của tình trạng này là do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp mà giá thành nông sản lại cao, thiếu tính liên kết trong nội bộ ngành nông nghiệp và giữa ngành nông nghiệp với các ngành kinh tế khác như công nghiệp và dịch vụ (như công nghiệp hỗ trợ ngành nông nghiệp chẳng hạn), tạo ra quá nhiều tầng nấc trung gian trong chuỗi giá trị; một nghiên cứu cho thấy, trong khi các quốc gia khác chỉ có chừng 2-4 tác nhân trung gian thì ở Việt Nam con số này là 5-7. Người Việt coi trọng nghề nông, minh triết của người Việt coi nông nghiệp là gốc của mọi thứ trong xã hội, ‘canh nông vi bản’. Ngày nay nông nghiệp không chỉ giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn (‘yên dân’), mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để hiện thực hóa khát vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một quốc gia có nền nông nghiệp còn chưa phát triển. Trong năm 2020, tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 khiến nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ bị đình đốn thì sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn phát triển, vẫn đảm bảo ổn định an ninh lương thực trong nước và duy trì xuất khẩu nông sản. Những kết quả này rất quan trọng, xét trong bối cảnh khu vực nông thôn chiếm tới 63% dân cư, 66% số hộ, 68% người làm việc; nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13.96% trong GDP (Tổng cục thống kê, 2019). Những thách thức từbên ngoài Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu cho nên thách thức trực tiếp và lâu dài đến sản xuất nông nghiệp là tác động của biến đổi khí hậu - Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m mà Việt Nam không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt không còn khả năng canh tác (Phạm Tất Thắng, 2017). Mặt khác, biến động thời tiết ngày càng cực đoan, bất thường, khó kiểm soát; các nhà khoa học cũng dự báo các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn; số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, bão lũ sẽ gây ảnh hưởng ngày thêm nặng nề trên qui mô cả nước.
Nền nhiệt của Việt Nam đã tăng lên đáng kể; nguồn nước chịu ảnh hưởng do thay đổi lượng mưa; mực nước biển dâng dẫn đến thu hẹp diện tích sản xuất, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016); xói lở và xâm nhập mặn diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Những ảnh hưởng trên khiến cho việc phát triển nông nghiệp gặp bất lợi lớn, do đó cần có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nền nông nghiệp quảng canh rủi ro và thiếu hiệu quả Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thời gian qua có đóng góp của nhiều ‘điểm sáng’ về thâm canh, ứng dụng công nghệ cao chủ yếu mang tính quảng canh, dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, thâm dụng lao động, lấy sản lượng, năng suất là chính, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng, hiệu quả kinh tế, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, và bảo vệ môi trường, dù thời kỳ 'đói khát' đã qua từ lâu. Hơn nữa, nông nghiệp lại chưa gắn với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, tương trợ cùng nhau phát triển. Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành còn ít. Vì vậy, nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang phát triển không đồng đều, thiếu ổn định, mà thực tế ‘được mùa mất giá’, ‘giải cứu nông sản’ hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh, sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ.
Nguồn: Khôi & Thắng, 2019 Năng suất lao động của nông dân Việt Nam đang thuộc nhóm thấp nhất châu Á. Dù trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) bình quân cao, với 5,2%/năm giai đoạn 2011-2018, cao hơn tốc độ tăng bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng (3%/năm) và khu vực dịch vụ (3,1%/năm), tuy nhiên khu vực này vẫn có mức NSLĐ thấp nhất trong các khu vực kinh tế, đến năm 2018 theo giá hiện hành đạt 39,8 triệu VND/lao động, chỉ bằng 38,9% NSLĐ của toàn nền kinh tế, bằng 30,4% NSLĐ của khu vực công nghiệp và xây dựng, bằng 33,7% khu vực dịch vụ. Trong các nước ASEAN, NSLĐ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Malaysia cao gấp 11,9 lần; Indonesia cao gấp 2,4 lần; Thái Lan cao gấp 2,1 lần và Philippine cao gấp 1,8 lần mức NSLĐ của Việt Nam (Tùng Đinh, 2020).
Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả, nhưng cũng đã tới ngưỡng kịch trần của xu hướng phát triển theo chiều rộng. Các nông hộ chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường. Rõ ràng là, kinh tế hộ vẫn và sẽ mãi là hạt nhân của kinh tế nông thôn, nhưng rất cần nâng lên một tầm cao mới, một vị thế mới. Tiếc là, kinh tế hộ gia đình hiện nay, về cơ bản, vẫn là những gì hộ nông dân đã có từ thời sau đổi mới, sau Khoán 10; chưa có một nghiên cứu nào định hình được chân dung kinh tế hộ gia đình trong thời đại công nghiệp 4.0.
Đầu tư vào nông nghiệphạn chế Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như hệ thống thủy lợi của Việt Nam bị đánh giá là kém hiệu quả, không có hệ thống đo lường chất lượng nước, không có hệ thống điều khiển dòng chảy. Từ đó, năng suất nước thấp (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cũng chưa phát triển, đặc biệt là khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics. Các ngành công nghiệp chế biến và chế biến sâu nông sản chưa phát triển, đa phần là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu (Quyền Đình Hà, 2017). Điều đó dẫn tới chất lượng nông sản khi xuất khẩu thấp, giá trị gia tăng nhỏ. Việc hỗ trợ kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất - phân phối các sản phẩm nông nghiệp chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn (Nhóm Ngân hàng Thế giới, 2016). Hệ thống kinh doanh nông sản chỉ tập trung vào một số ngành truyền thống hoặc có lợi nhuận cao như lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều. Dù đã thành lập các “sàn giao dịch nông sản” nhưng hoạt động của các sàn này còn rất hạn chế, chưa thực chất (Nguyễn Thị Minh Hiền, 2016). Đời sống kinh tế người nông dân bấp bênh Các số liệu điều tra gần đây cho thấy, dù bộ mặt nông thôn đã thay đổi nhiều, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân dù đã cải thiện nhưng vẫn còn thấp, tăng thu nhập giai đoạn 2002-2016 của hộ nông dân đạt 5.75%/năm, nghĩa là thu nhập của nông thôn tăng theo thời gian nhưng với tốc độ chậm, trong khi chi tiêu cũng tăng, nên khả năng tích lũy thực tế của hộ nông thôn rất thấp, năm cao nhất chỉ đạt trên 22 triệu đồng, chưa bằng 50% hộ thành thị. Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn cao gấp 3,7 lần thanh thị, 40% hộ nông thôn không có tích lũy, 84% lao động nông nghiệp không có tiền để dành (Khôi & Thắng, 2019); trong đó, hộ thuần nông cho thu nhập thấp nhất, những hộ thuần làm nông lâm thủy sản có thu nhập/tháng/người bằng 29% thu nhập/tháng/người nông thôn, chỉ nhỉnh hơn nhóm người không làm việc gì! Tỷ lệ hộ nghèo tuy giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Tiềm lực tài chính như vậy, nên người nông dân rất khó tự đầu tư mở rộng sản xuất, tự nâng cao trình độ, hay tự ứng phó với những cú sốc về giá hay tai biến về thời tiết, dịch bệnh. (Còn tiếp) Nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ nông nghiệp như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến và chế biến sâu, và các lĩnh vực khoa học của kỷ nguyên số như IoT, Bigdata, AI, Blockchain, Robotics và gần đây là Tính toán lượng tử… ứng dụng vào nông nghiệp còn thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn bị tụt hậu, không đồng bộ so với nhu cầu, nhiệm vụ và so với mặt bằng chung của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới mà chúng ta đang hướng tới, dẫn đến tình trạng đào tạo nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm.
----------------------- Dù phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp hữu cơ thì cũng phải tính đến hiệu quả, tính bền vững và sự phù hợp; tuyệt đối không nên phát triển các phương thức sản xuất nông nghiệp mới nào theo phong trào, ồ ạt, lấy thành tích và để khoe khoang là chính. ---
Chia sẻ
Tags:
|