Ý nghĩa tính hai mặt của sản xuất hàng hóa năm 2024

  1. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. c. Mác viết: "Tôi là người đầu tiên đã chứng minh một cách có phê phán tính chất hai mặt ấy của lao động chứa đựng trong hàng hóa". Đây là điểm mấu chốt để nhận thức vai trò khác nhau của những nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất và tạo ra giá trị.

Nhờ phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hảng hóa, c. Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng: trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị cú (c) vào trong sản phẩm mới, lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (v + rn) và toàn bộ giá trị hàng hóa gồm (c. + V + m). Điều này cả A. Smít và Đ. Ri-các-đô không vượt lên được. Trên cơ sở lý thuyết giá trị lao dộng và phát minh ra tính hai mặt của lao động' sản xuất hàng hóa, c. Mác đã giải quyết một cách triệt để hệ thống các phạm trù và quy luật kinh tế khác.

  1. Mác đã vạch rõ chất của giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa, đó là mặt đồng nhất của mọi lao động và là cơ sở của sự trao đổi. Lao động cụ thể là lao động tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Các loại lao động cụ thể khác nhau sẽ tạo ra các. giá trị sử dụng khác nhau, nhờ đó chúng có thể đứng đối diện với nhau. Như vậy, C. Mác là người đầu tiên vạch ra nguồn gốc hai thuộc tính của hàng hóa.

Nhờ phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, c. Mác là người đầu tiên chỉ ra vai trò khác nhau của các nhân tố: lao động, đối tượng lao động, công cụ lao động trong quá trình tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Ba nhân tố này có vai trò khác nhau. Máy móc, công cụ lao động là phương tiện để tăng sức sản xuất của lao động. Lao động cụ thể của công nhân chuyển nguyên vẹn giá trị của tư liệu sản xuất đã hao phí sang sản phẩm mới; còn lao động trừu tượng thì tạo ra giá trị mới ngang bằng giá trị sức lao động (v) cộng với giá trị thặng dư (m). Như vậy, trong điều kiện sán xuẩt hàng hóa tư bản chu nghĩa, lao động sống, lao động trừu tượng của người công nhân tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Điều này các nhà kinh tế học trước c. Mác không làm được, vì họ chưa biết đến tmh hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Để giải thích nguồn gốc giá trị thặng dư, họ đã phải viện đến sự vi phạm quy luật giá trị. Do đó, họ chỉ chú ý đến các hình thái riêng biệt của giá trị thặng dư, mà chưa tìm ra nguồn gốc, bản chất và mối liên hệ của các phạm trù đó. Chỉ đến C. Mác, mọi bí mật về giá trị thặng dư đã được, vạch ra. Đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị, bằng phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C. Mác đã chỉ ra giá trị thặng dư là do lao động trừu tượng không được, trả công của người công nhân làm thuê tạo ra, bị nhà tư bản chiếm đoạt. Trong thực tế, giá trị thặng dư được biểu hiện dưới các hình thái cụ thể của nó như lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi -tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa.

Như vậy chỉ đến c. Mác, bằng phát minh ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa mới làm cho lý luận giá trị và giá trị thặng dư được giải quyết một cách triệt để. Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng). C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.


1. Lao động cụ thể

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.

Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào…; và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi… Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Ý nghĩa tính hai mặt của sản xuất hàng hóa năm 2024
Hình minh họa. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa


2. Lao động trừu tượng

Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.

Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.

Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.

Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.

Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất – lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.

Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:

– Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội…). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị.

– Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.

Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.

Tính hai mặt của sản xuất hàng hóa là gì?

Hàng hóa có hai thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng).

Tại sao lao động sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang tính xã hội?

Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội.

Tại sao lại có hai thuộc tính của hàng hóa?

Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị, hai thuộc tính đó không phải do có hai loại lao động khác nhau kết tinh trong nó, mà do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Các là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.

Lao động cụ thể phản ánh điều gì?

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.