5 tay đua hàng đầu trong nfl năm 2022
Premier League Giải bóng đá Ngoại hạng Anh (tiếng Anh: Premier League), thường được biết đến với tên gọi English Premier League hoặc EPL, là hạng đấu cao nhất của hệ thống các giải bóng đá ở Anh. Gồm 20 câu lạc bộ, giải đấu sử dụng hệ thống thăng hạng và xuống hạng với English Football League (EFL). Mùa giải kéo dài từ tháng 8 đến tháng 5 với mỗi đội chơi 38 trận đấu (đấu với 19 đội khác trên sân nhà và sân khách).[1] Đa số các trận đấu được diễn ra vào chiều Thứ Bảy và Chủ Nhật. Giải đấu được thành lập vào ngày 20 tháng 2 năm 1992 với tên gọi FA Premier League sau quyết định của các câu lạc bộ tham dự Football League First Division tách khỏi Football League, một giải đấu khởi nguồn từ năm 1888, nhằm tận dụng lợi thế về các thỏa thuận bản quyền truyền hình.[2] Thỏa thuận trong nước trị giá 1 tỉ bảng/năm được ký cho mùa 2013–14, với việc BSkyB và BT Group giành quyền phát sóng lần lượt 116 và 38 trận đấu.[3] Giải đấu thu về 2,2 tỉ euro/năm tiền bản quyền truyền hình trong nước và quốc tế.[4] Tính đến mùa 2014–15, các câu lạc bộ được chia khoản lợi nhuận 1,6 tỉ bảng,[5] và 2,4 tỉ bảng vào mùa 2016–17.[6] Hiện tại, Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình.[7][8] Trong mùa giải 2014–15, trung bình 1 trận đấu tại Premier League thu hút khoảng 36,000 khán giả tới sân,[9] cao thứ 2 trong các giải bóng đá chuyên nghiệp sau Bundesliga với 43.500 khán giả.[10] Phần lớn các sân bóng đều được lấp đầy khán giả.[11] Premier League xếp thứ 1 trong Hệ số UEFA dành cho các giải đấu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ tại các giải đấu châu Âu trong 5 mùa giải, tính đến năm 2021.[12] Đã có tất cả 50 câu lạc bộ tham dự kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League năm 1992, nhưng mới chỉ có 7 trong số đó giành được chức vô địch: Manchester United (13), Manchester City (6), Chelsea (5), Arsenal (3), Blackburn Rovers, Leicester City và Liverpool (1).[13] Lịch sử hình thành[sửa | sửa mã nguồn]Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]Sau thành công tại châu Âu những năm 1970 và đầu 1980, đến cuối những năm 80 đánh dấu những bước lùi của bóng đá Anh. Các sân vận động xuống cấp, những cổ động viên phải sử dụng cơ sở vật chất nghèo nàn, hooligan đầy rẫy, và các câu lạc bộ Anh bị cấm thi đấu tại các giải châu Âu trong 5 năm sau thảm họa Heysel năm 1985.[14] Football League First Division, giải đấu cao nhất của nước Anh ra đời năm 1888, xếp sau Serie A của Italia và La Liga của Tây Ban Nha về số lượng khán giả cũng như doanh thu, một vài cầu thủ Anh nổi bật chuyển ra nước ngoài thi đấu.[15] Đầu thập niên 1990, xu hướng dần đảo ngược: tại World Cup 1990, Anh lọt tới vòng bán kết; UEFA, cơ quan quản lý bóng đá châu Âu, dỡ bỏ lệnh cấm các câu lạc bộ Anh thi đấu tại các giải đấu châu Âu cũng trong năm đó, kết quả là Manchester United giành chức vô địch UEFA Cup Winners' Cup một năm sau đó, cùng với đó Lord Justice Taylor đưa ra bản báo cáo vào tháng 1 năm đó sau thảm họa Hillsborough, đề nghị các sân vận động phải nâng cấp trở thành những sân vận động gồm tất cả các khán đài ngồi.[16] Vào thập niên 1980, những câu lạc bộ lớn ở Anh bắt đầu chuyển dịch thành những dự án kinh doanh khi áp dụng các cơ chế thị trường vào quản lý câu lạc bộ để tối đa hóa lợi nhuận. Martin Edwards của Manchester United, Irving Scholar của Tottenham Hotspur và David Dein của Arsenal là những người dẫn đầu trong sự chuyển dịch này. Điều này đem lại cho các câu lạc bộ lớn nhiều quyền lực hơn. Bằng cách đe dọa sẽ ly khai, các câu lạc bộ ở Division One đã cố gắng làm tăng quyền chi phối biểu quyết của họ. Họ còn chiếm 50% cổ phần từ thu nhập truyền hình và tài trợ vào năm 1986.[17] Doanh thu về truyền hình cũng dần trở nên quan trọng hơn: Football League nhận được 6,3 triệu bảng trong một thỏa thuận hai năm năm 1986, nhưng khi gia hạn hợp đồng mới năm 1988, giá trị đã tăng lên 44 triệu bảng cho bốn năm, với các đội bóng lớn chiếm 75% số tiền.[18][19] Theo Scholar, người trực tiếp tham gia những cuộc đàm phán về thỏa thuận truyền hình, các đội bóng ở giải Hạng Nhất chỉ nhận được khoảng 25.000 bảng từ tiền bản quyền truyền hình, nhưng con số đó đã tăng lên vào khoảng 50.000 bảng trong đàm phán năm 1986 và 600.000 bảng vào năm 1988.[20] Những cuộc đàm phán năm 1988 là những dấu hiệu đầu tiên của một giải đấu ly khai: 10 câu lạc bộ dọa rời khỏi và thành lập một "siêu giải đấu", nhưng cuối cùng đã được thuyết phục để ở lại, khi các đội bóng lớn chiếm phần lớn nhất của thỏa thuận.[18][21][22] Khi mà các sân vận động được tu bổ, lượng khán giả và doanh thu tăng lên, các câu lạc bộ hàng đầu lại một lần nữa cân nhắc việc rời khỏi Football League để tận dụng dòng tiền chảy vào các môn thể thao.[22] Thành lập[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1990, giám đốc điều hành của London Weekend Television (LWT), Greg Dyke, đã gặp mặt đại diện của những đội bóng "big five" ở Anh (Manchester United, Liverpool, Tottenham, Everton và Arsenal) trong một bữa tối.[23] Mục đích của cuộc gặp là sự mở đường cho cuộc ly khai khỏi Football League.[24] Dyke tin rằng việc này sẽ đem lại lợi ích cho LWT nếu chỉ có những đội bóng lớn hơn trong nước xuất hiện trên truyền hình quốc gia, đồng thời muốn xác minh liệu các câu lạc bộ có quan tâm đến cổ phần tiền bản quyền truyền hình lớn hơn hay không.[25] Tuy nhiên giải đấu sẽ không có uy tín nếu như không có sự ủng hộ của Liên đoàn bóng đá Anh (FA), vì thế David Dein của Arsenal đã đàm phán với FA để tiếp nhận ý tưởng. FA vốn đang không có mối quan hệ tốt với Football League vào thời điểm đó nên coi đó như là một cách làm suy yếu đi vị thế của Football League.[26] Kết thúc mùa bóng 1991, một lời đề nghị đã được đưa ra về việc tạo ra giải đấu mới sẽ mang về nhiều tiền hơn. Bản hiệp định các thành viên sáng lập do các câu lạc bộ của giải đấu cấp cao nhất lúc đó ký ngày 17 tháng 7 năm 1991, nhằm lập ra các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập FA Premier League.[27]> Giải đấu cấp cao nhất mới được thành lập này sẽ độc lập tài chính với Hiệp hội bóng đá Anh và Football League, giúp cho FA Premier League tự chủ về việc thỏa thuận các hợp đồng tài trợ và bản quyền truyền hình. Lý lẽ được đưa ra khi đó là việc tăng thu nhập sẽ giúp các câu lạc bộ Anh tăng khả năng cạnh tranh với các đội bóng khác ở châu Âu.[15] Mặc dù Dyke đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập giải bóng đá Ngoại hạng Anh, Dyke và ITV lại thất bại trong cuộc đấu thầu bản quyền phát sóng khi BSkyB là đơn vị giành gói thầu với trị giá 304 triệu bảng trong 5 năm, còn BBC nhận gói phát sóng các chương trình tổng hợp vòng đấu trên Match of the Day.[23][25] Năm 1992, các câu lạc bộ Hạng Nhất đồng loạt từ bỏ Football League và tới ngày 27 tháng 5 năm 1992, FA Premier League thành lập 1 công ty trách nhiệm hữu hạn làm việc tại văn phòng của Hiệp hội bóng đá Anh sau đó đặt trụ sở chính ở Lancaster Gate.[15] Điều đó có nghĩa Football League chấm dứt 104 năm hoạt động với bốn giải đấu; Premier League sẽ hoạt động như một hạng đấu riêng còn Football League chỉ còn ba hạng. Không có sự thay đổi nào về thể thức; vẫn giữ nguyên số đội ở hạng đấu cao nhất, việc lên xuống hạng giữa Premier League và Hạng Nhất mới vẫn giữ nguyên như giữa Hạng Nhất và Nhì cũ với 3 đội lên hạng và 3 đội xuống hạng.[22] Mùa giải đầu tiên diễn ra vào 1992–93 và có 22 câu lạc bộ tham dự. Bàn thắng đầu tiên tại Premier League được ghi bởi Brian Deane của Sheffield United trong trận thắng 2–1 trước Manchester United.[28] 22 thành viên ban đầu của Premier League mới là Arsenal, Aston Villa, Blackburn Rovers, Chelsea, Coventry City, Crystal Palace, Everton, Ipswich Town, Leeds United, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Middlesbrough, Norwich City, Nottingham Forest, Oldham Athletic, Queens Park Rangers, Sheffield United, Sheffield Wednesday, Southampton, Tottenham Hotspur, và Wimbledon.[29] Luton Town, Notts County và West Ham United là 3 đội bị xuống hạng ở giải hạng nhất cũ mùa 1991–92, nên không được tham dự mùa giải đầu tiên của Premier League.[30] "Top Four" thống trị (thập niên 2000)[sửa | sửa mã nguồn]Kết quả thi đấu của 'Top Four' trong thập niên 2000
Một dấu hiệu nổi bật của Ngoại hạng Anh vào giữa thập niên 2000 là sự thống trị của nhóm "Top Four" gồm bốn câu lạc bộ: Arsenal, Chelsea, Liverpool và Manchester United.[31][32] Trong thập kỷ đó, cá biệt là từ 2002 tới 2009, họ thống trị 4 vị trí đầu, nơi có suất tham dự UEFA Champions League. Họ góp mặt cả trong 4 vị trí này 5 trong 6 mùa giải từ 2003–04 tới 2008–09, cùng với đó là việc Arsenal giành chức vô địch mà không thua trận nào mùa 2003–04, lần duy nhất diễn ra tại Premier League.[33] Trong thập niên 2000 có bốn đội bóng ngoài "Big Four" đã giành được một suất trong top 4 Ngoại hạng Anh và giành vé tới đấu trường UEFA Champions League. Đó là Leeds United (1999–2000), Newcastle United (2001–02 và 2002–03), Everton (2004–05) và Tottenham Hotspur (2009–10) – mỗi đội đều đứng ở vị trí thứ 4 và giành suất cuối cùng dự Champions League, riêng Newcastle ở mùa bóng 2002–03, họ kết thúc ở vị trí thứ ba. Tháng 5 năm 2008, Kevin Keegan phát biểu rằng việc thống trị của "Top Four" đe dọa đến giải đấu: "Giải đấu này có nguy cơ trở thành một trong những giải đấu lớn nhưng nhàm chán nhất thế giới."[34] Giám đốc điều hành Premier League, Richard Scudamore phản biện lại rằng: "Có nhiều sự cạnh tranh khác nhau ở Premier League tại các vị trí đầu bảng, giữa bảng hay cuối bảng xếp hạng. Điều đó làm nên sự thú vị của giải đấu."[35] Trên đấu trường châu Âu, từ năm 2005 đến năm 2012, các đội bóng trong Big Four xuất hiện ở chung kết Champions League đến 7 trong tổng số 8 lần (ngoại trừ năm 2010). Liverpool (2005), Manchester United (2008) và Chelsea (2012) đã giành được chức vô địch, với Arsenal (2006), Liverpool (2007), Chelsea (2008) và Manchester United (2009 và 2011) đều để thua chung kết Champions League.[36] Arsenal là đội bóng duy nhất trong "Big Four" chưa giành được chức vô địch Champions League nào trong lịch sử.[37] Leeds United là đội bóng duy nhất ngoài Big Four tiến tới bán kết Champions League (2000–01). Ở các cúp châu Âu khác (UEFA Cup và Europa League sau này), bốn đội bóng Anh đã tiến đến các trận chung kết của UEFA Cup (hay Europa League sau này), trong đó chỉ Liverpool đoạt cúp vào năm 2001. Arsenal (2000), Middlesbrough (2006) và Fulham (2010) đều thua trận chung kết.[38] Từ Top 4 tới "Top 6"[sửa | sửa mã nguồn]Từ sau năm 2009, đánh dấu sự thay đổi cấu trúc của "Top 4" với việc Tottenham Hotspur và Manchester City cùng lọt vào top 4.[39] Trong mùa giải 2009–10, Tottenham kết thúc ở vị trí thứ tư, qua đó trở thành đội bóng đầu tiên lọt vào top bốn kể từ sau Everton năm 2005.[40] Tuy nhiên, những chỉ trích về khoảng cách giữa nhóm các "siêu câu lạc bộ" và phần còn lại của Premier League thì vẫn tiếp diễn, do họ chi tiêu nhiều hơn so với các câu lạc bộ khác ở Premier League.[41] Kể từ khi liên tục có sự hiện diện của Manchester City và Tottenham Hotspur ở các vị trí đầu bảng xếp hạng, không có đội bóng nào bảo vệ thành công chức vô địch Ngoại hạng Anh.[42] Ngoài ra, Premier League là giải vô địch quốc gia duy nhất tại các quốc gia thuộc UEFA mà không có câu lạc bộ nào bảo vệ thành công chức vô địch.[43] Manchester City vô địch mùa 2011–12, trở thành câu lạc bộ đầu tiên ngoài "Top Four" vô địch kể từ mùa 1994–95. Đó cũng là mùa đầu tiên 2 trong 4 đội Top Four (Chelsea và Liverpool) kết thúc ngoài top 4 kể từ 1994–95.[39] Kết quả và thứ hạng của 'Big Six' trong thập niên 2010
Chỉ với 4 vị trí đầu tiên của giải đấu có được suất dự UEFA Champions League mà hiện nay có sự cạnh tranh lớn hơn 4 suất đó, mặc dù chỉ mới mở ra đến 6 đội bóng. Nếu các đội bằng điểm và hiệu số bàn thắng, một trận đấu phân định suất dự cúp Châu Âu sẽ được chơi ở sân trung lập. Trong năm mùa giải tiếp theo sau mùa bóng 2011–12, Manchester United và Liverpool đều đứng ngoài top bốn 3 lần trong khi Chelsea kết thúc ở vị trí 10 trong mùa giải 2015–16. Arsenal khép lại giải đấu ở vị trí thứ 5 vào mùa bóng 2016–17, kết thúc kỷ lục của họ với 20 lần liên tiếp kết thúc trong top bốn.[44] Mùa bóng 2015–16, top bốn đã bị phá vỡ bởi một đội bóng nằm ngoài nhóm Big Six lần đầu tiên kể từ sau Everton năm 2005. Leicester City viết thành công câu chuyện cổ tích khi giành được chức vô địch Premier League và được tham dự vòng bảng Champions League.[45] Ngoài sân cỏ, "Top 6" nắm giữ sức mạnh và tầm ảnh hưởng về tài chính, các đội bóng này cho rằng họ nên được hưởng phần doanh thu lớn hơn do tầm vóc của câu lạc bộ của họ trên toàn cầu và thứ bóng đá hấp dẫn mà họ nhắm đến.[46] Những người phản đối điều đó cho rằng cơ cấu doanh thu bình đẳng ở Premier League giúp duy trì tính cạnh tranh của giải đấu, điều đó rất quan trọng cho sự thành công trong tương lai.[47] Quá trình phát triển[sửa | sửa mã nguồn]Do yêu cầu của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), cơ quan quản lý bóng đá quốc tế, rằng các giải đấu trong nước phải giảm số trận đấu, số câu lạc bộ giảm xuống còn 20 năm 1995, với việc 4 đội xuống hạng và chỉ có 2 lên hạng.[48][49] Và cao nhất chỉ có 22 đội vào năm đầu tiên của mùa giải.[49] Ngày 8 tháng 6 năm 2006, FIFA yêu cầu tất cả các giải đấu lớn của châu Âu, gồm cả Serie A của Italia và La Liga của Tây Ban Nha giảm xuống còn 18 đội bắt đầu từ mùa 2007–08. Premier League phản ứng bằng cách đưa ra các ý định của họ để phản đối việc cắt giảm.[50] Cuối cùng, mùa 2007–08 vẫn khởi tranh với 20 đội.[51] Giải đấu được đổi tên FA Premier League đơn giản hơn thành Premier League năm 2007.[52] Cơ cấu tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]Football Association Premier League Ltd (FAPL)[53][54][55] được tổ chức như 1 công ty và được sở hữu bởi 20 thành viên câu lạc bộ. Mỗi câu lạc bộ là 1 cổ đông, với 1 phiếu mỗi khi biểu quyết về các vấn đề như thay đổi quy tắc và hợp đồng. Các câu lạc bộ lựa chọn ra 1 chủ tịch, giám đốc điều hành, và các thành viên ban giám đốc để giám sát các hoạt động của giải đấu.[56] Chủ tịch hiện tại là Sir Dave Richards, được bổ nhiệm vào tháng 4 năm 1999, và giám đốc điều hành là Richard Scudamore, được bổ nhiệm tháng 11 năm 1999.[57] Cựu chủ tịch và giám đốc điều hành, John Quinton và Peter Leaver, bị buộc từ chức vào tháng 3 năm 1999 sau khi trao hợp đồng tư vấn cho cựu giám đốc Sky Sam Chisholm và David Chance.[58] Liên đoàn bóng đá Anh không trực tiếp tham gia vào việc điều hành Premier League, nhưng có quyền phủ quyết với tư cách cổ đông đặc biệt trong việc lựa chọn chủ tịch và giám đốc điều hành và khi các luật mới được đưa ra áp dụng cho giải đấu.[59] Premier League có đại diện tại Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu của UEFA, số câu lạc bộ và những câu lạc bộ được lựa chọn theo hệ số UEFA. Mùa giải 2012–13, Premier League có 10 đại diện trong Hiệp hội: Arsenal, Aston Villa, Chelsea, Everton, Fulham, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Newcastle United và Tottenham Hotspur.[60] Hiệp hội các Câu lạc bộ châu Âu có trách nhiệm lựa chọn ra 3 thành viên tham gia Ủy ban các giải đấu cấp câu lạc bộ của UEFA, nơi tham gia điều hành các giải đấu của UEFA như Champions League và UEFA Europa League.[61] Thể thức giải đấu[sửa | sửa mã nguồn]Giải đấu[sửa | sửa mã nguồn]Có 20 câu lạc bộ tại Premier League. Trong một mùa giải (từ tháng 8 tới tháng 5) mỗi câu lạc bộ sẽ thi đấu với các đối thủ khác 2 lần (vòng tròn 2 lượt), 1 trận sân nhà và 1 trận sân khách, tính ra có 38 trận đấu. Các đội sẽ giành được 3 điểm/trận thắng và 1 điểm/trận hòa. Không có điểm khi thua trận. Các đội sẽ được xếp hạng theo tổng số điểm giành được, rồi sau đó mới xét tới hiệu số bàn thắng, và số bàn ghi được. Nếu vẫn bằng điểm nhau, các đội sẽ được tính là xếp cùng vị trí. Nếu việc bằng nhau đó quyết định tới chức vô địch, xuống hạng hay giành quyền tham dự 1 giải đấu khác, 1 trận play-off sẽ được diễn ra trên sân trung lập để xác định thứ hạng.[62] 3 vị trí thấp nhất sẽ xuống chơi tại Football League Championship, còn 2 đội đứng đầu Championship, cùng với đội thắng vòng play-off dành cho các đội xếp từ thứ 3 tới thứ 6 Championship, sẽ giành quyền lên hạng.[63] Năm 2008 đã từng có đề xuất thêm vòng đấu 39 nhưng ý tưởng này đã bị hủy bỏ. Tư cách tham dự các giải đấu châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]Arsenal gặp Borussia Dortmund tại UEFA Champions League năm 2011Mùa giải 2009–10, suất tham dự UEFA Champions League thay đổi, 4 đội đứng đầu Premier League giành quyền tham dự UEFA Champions League, với việc 3 đội dẫn đầu lọt trực tiếp vào vòng bảng. Trước đó chỉ có 2 đội dẫn đầu lọt trực tiếp. Đội xếp thứ 4 tham dự Champions League ở vòng play-off dành cho các đội không vô địch và phải thắng sau 2 lượt trận mới được vào vòng bảng.[64] Đội xếp thứ 5 Premier League sẽ trực tiếp tham dự UEFA Europa League, đội thứ 6 và thứ 7 được tham dự hay không, phụ thuộc vào đội vô địch 2 cúp quốc nội là FA Cup và League Cup. Hai suất Europa League sẽ được dành cho đội vô địch của giải đấu đó; nếu đội vô địch FA Cup hoặc League Cup đã giành quyền tham dự Champions League, thì suất đó sẽ dành cho đội có vị trí kết thúc ở vị trí cao hơn tại Premier League.[65][66] Một suất tham dự UEFA Europa League khác cũng có thể giành được nhờ giải Fair Play. Nếu Premier League là một trong ba giải đứng bảng xếp hạng Fair Play của châu Âu, đội xếp cao nhất trong bảng xếp hạng Fair Play Premier League nếu chưa giành quyền tham dự cúp châu Âu sẽ được tham dự từ vòng loại thứ nhất UEFA Europa League.[67] Một ngoại lệ xảy ra năm 2005, khi Liverpool vô địch Champions League năm trước đó, nhưng họ không giành được quyền tham dự Champions League tại Premier League mùa giải đó. UEFA dành cho Liverpool quyền đặc biệt tham dự Champions League, giúp Anh có 5 đội tham dự.[68] UEFA sau đó đưa ra quy định đội đương kim vô địch mặc nhiên được tham dự vào mùa sau bất chấp kết quả của họ tại giải quốc nội. Tuy nhiên, đối với những quốc gia có 4 suất tham dự Champions League, nếu nhà vô địch Champions League kết thúc ở vị trí ngoài đội đứng đầu ở giải quốc nội, đội đó sẽ lấy suất tham dự của đội xếp thứ 4. Tại thời điểm đó, không có một liên đoàn nào có hơn 4 đại diện tham dự Champions League.[69] Điều này diễn ra vào năm 2012, khi Chelsea – đội vô địch Champions League năm trước đó nhưng xếp thứ 6 tại giải trong nước – giành suất tham dự Champions League của Tottenham Hotspur, đội phải tham dự Europa League.[70] Bắt đầu từ mùa 2015–16, đội vô địch Europa League sẽ được tham dự Champions League mùa giải tiếp theo, suất tối đa tham dự Champions League cho mỗi quốc gia được nâng lên 5. Một quốc gia có 4 suất Champions League, như Anh, sẽ chỉ kiếm được suất thứ 5 nếu một câu lạc bộ không giành được quyền tham dự Champions League thông qua giải quốc nội mà vô địch Champions League hoặc Europa League.[71] Năm 2007, Premier League trở thành giải đấu đứng đầu bảng xếp hạng Các giải đấu châu Âu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ Anh tại cúp châu Âu trong giai đoạn 5 năm. Điều này đã phá vỡ sự thống trị 8 năm của giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha, La Liga.[72] Các câu lạc bộ Premier League tại các giải quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]Từ mùa 1992–93 tới 2015–16, các câu lạc bộ Premier League đã 4 lần giành chức vô địch UEFA Champions League (và 5 lần giành á quân), xếp sau La Liga của Tây Ban Nha với 9 lần và Serie A của Italia với 5 lần, còn lại xếp trên các nước khác, xếp ngay trên Bundesliga của Đức với 3 lần vô địch.[73] (xem bảng tại đây) FIFA Club World Cup (hay FIFA Club World Championship, theo tên gọi ban đầu) từng 1 lần được các câu lạc bộ Premier League giành được (Manchester United năm 2008),[74] họ cũng 2 lần giành chức á quân (Liverpool vào 2005, Chelsea vào 2012),[75][76] xếp sau Brasileirão của Brazil[75][76][77][78] và La Liga của Tây Ban Nha với bốn lần,[79][80] và Serie A của Italia với hai lần.[81][82] (xem bảng tại đây) Lên, xuống hạng[sửa | sửa mã nguồn]Các câu lạc bộ của Giải Ngoại hạng và Giải bóng đá hạng nhất Anh có sự chuyển đổi hạng thi đấu sau mỗi mùa giải. Cụ thể, ba đội bóng đứng cuối bảng xếp hạng của giải Ngoại hạng Anh sẽ trực tiếp xuống chơi tại Giải bóng đá hạng nhất Anh.[83] Còn 2 đội đứng đầu bảng của giải hạng nhất Anh sẽ trực tiếp thăng hạng lên Ngoại hạng Anh, một cầu lạc bộ còn lại sẽ lên hạng sau chiến thắng trong trận play-off giữa các đội đứng thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6 giải hạng nhất Anh.[84] Số lượng các câu lạc bộ có sự chuyển đổi hạng thi đấu được thể hiện như sau:
Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]Có tổng cộng 50 câu lạc bộ từng tham dự Premier League từ khi thành lập năm 1992, tính đến mùa 2021–22.[85] Các đội vô địch[sửa | sửa mã nguồn]
Số lần vô địch theo câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]
Các câu lạc bộ theo giai đoạn[sửa | sửa mã nguồn]Do việc lên xuống hạng, chỉ có 6 thành viên sáng lập Premier League chưa từng xuống hạng, trong khi đó 6 đội sáng lập khác chưa thể trở lại sau khi xuống hạng. Có 25 câu lạc bộ giành được quyền thăng hạng, chỉ có 3 đội không xuống hạng trong mùa tiếp theo, trong khi đó có 7 đội xuống hạng ngay sau 1 giai đoạn. Số còn lại 15 câu lạc bộ lên xuống nhiều lần, như trường hợp của thành viên sáng lập Crystal Palace là 5 giai đoạn khác nhau.
Mùa 2021–22[sửa | sửa mã nguồn]Dưới đây là 20 câu lạc bộ tham dự Premier League mùa 2021–22:
a: Thành viên sáng lập Premier League b: Chưa từng xuống hạng từ Premier League c: Một trong 12 đội Football League ban đầu Vị trí của các câu lạc bộ tham dự Premier League mùa 2019–20 Các câu lạc bộ bóng đá ở khu vực Luân Đôn Các câu lạc bộ ngoài Anh[sửa | sửa mã nguồn]WalesNăm 2011, câu lạc bộ của Wales tham dự Premier League lần đầu tiên, khi Swansea City giành suất lên hạng.[86][87] Trận đấu đầu tiên của Premier League diễn ra bên ngoài nước Anh là trận đấu sân nhà của Swansea City ở Sân vận động Liberty gặp Wigan Athletic ngày 20 tháng 8 năm 2011.[88] Mùa 2012–13, Swansea giành quyền tham dự Europa League khi vô địch League Cup.[89] Số câu lạc bộ của Wales tại Premier League được tăng lên 2 lần đầu tiên mùa 2013–14, khi Cardiff City giành quyền thăng hạng,[90] nhưng Cardiff City đã xuống hạng ngay mùa đó.[91] Cardiff được quay lại vào 2017-18 nhưng số lượng đội của Xứ Wales vẫn tương tự.[92] Vì họ là thành viên của Hiệp hội bóng đá Wales (FAW), vấn đề là những câu lạc bộ như Swansea nên đại diện cho Anh hay Wales ở các giải đấu châu Âu đã đặt ra những cuộc thảo luận kéo dài tại UEFA. Swansea giành một trong ba suất của Anh tham dự Europa League mùa 2013–14 sau khi vô địch League Cup 2012–13. Quyền của các câu lạc bộ Wales thi đấu dưới danh nghĩa đại diện của Anh được tranh cãi cho tới khi Welsh UEFA làm rõ vấn đề tháng 3 năm 2012.[93] Scotland và IrelandViệc tham dự Premier League của một vài câu lạc bộ Scotland hay Ireland được đưa ra thảo luận vài lần nhưng không có kết quả. Ý tưởng khả thi nhất là vào năm 1998, khi Wimbledon được Premier League chấp thuận di chuyển tới Dublin, Ireland, nhưng cuối cùng bị chặn lại bởi Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Ireland.[94][95][96][97] Thêm vào đó, giới truyền thông thi thoảng lại đưa ra ý tưởng về việc hai đội bóng lớn nhất Scotland, Celtic và Rangers, nên hoặc sẽ gia nhập Premier League, nhưng không có gì ngoài các cuộc thảo luận.[98][99] Các nhà tài trợ[sửa | sửa mã nguồn]Từ 1993 tới 2016, Premier League đã bán quyền tài trợ giải đấu cho hai công ty; Barclays là nhà tài trợ gần nhất, họ tài trợ cho Premier League từ năm 2001 tới 2016 (trước 2004, tài trợ thông qua thương hiệu Barclaycard trước khi trở lại với nhãn hiệu ngân hàng chính năm 2004).[100]
Hợp đồng của Barclays với Premier League kết thúc vào cuối mùa giải 2015–16. FA thông báo vào ngày 4 tháng 6 năm 2016, rằng sẽ không còn bất cứ nhà tài trợ nào gắn tên với Premier League nữa, họ muốn xây dựng một thương hiệu "sạch" cho giải đấu giống như các giải đấu thể thao nhà nghề Mỹ. Ngoài nhà tài trợ chính của giải đấu, Premier League còn có một số đối tác chính thức và các nhà cung cấp.[103] Bóng chính thức được cung cấp bởi Nike có hợp đồng từ mùa 2000–01 khi họ giành được quyền từ tay Mitre.[104] Tài chính[sửa | sửa mã nguồn]Premier League là giải đấu bóng đá có doanh thu cao nhất thế giới, với tổng doanh thu các câu lạc bộ là 2.48 tỉ Euro mùa 2009–10.[105][106] Mùa 2013–14, do doanh thu truyền hình được cải thiện và kiểm soát chi phí, Premier League đã có lợi nhuận ròng vượt trên 78 triệu bảng Anh, vượt qua tất cả các giải bóng đá khác.[107] Năm 2010 Premier League giành Giải thưởng Nữ hoàng dành cho doanh nghiệp trong hạng mục Thương mại quốc tế tôn vinh những đóng góp xuất sắc của họ đối với thương mại quốc tế và giá trị mà nó mang lại cho bóng đá Anh và ngành công nghiệp truyền hình của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.[108] Premier League có một vài câu lạc bộ giàu nhất thế giới. Bảng xếp hạng "Football Money League" của Deloitte có bảy câu lạc bộ Premier League nằm trong top 20 trong mùa giải 2009–10,[109] và cả 20 câu lạc bộ nằm trong top 40 toàn cầu tới cuối mùa 2013–14, phần lớn là kết quả của việc tăng doanh thu bản quyền truyền hình.[110] Từ năm 2013, giải đấu thu về 2.2 tỉ Euro một năm tiền bản quyền truyền hình nội địa và quốc tế.[4] Các câu lạc bộ tại Premier League đã đồng ý về nguyên tắc trong tháng 12 năm 2012, để kiểm soát chi phí mới một cách triệt để. Hai đề xuất bao gồm quy tắc hòa vốn và một mức trần mà các câu lạc bộ có thể tăng quỹ lương của họ theo từng mùa.[111] Bản quyền truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]Vương quốc Anh và Ireland[sửa | sửa mã nguồn]Từ năm 1992, sau khi 20 CLB hàng đầu nước Anh rời hệ thống Football League, Ngoại hạng Anh ra đời và hoạt động như một tập đoàn. Nó được điều hành bởi chính các đội bóng tham dự, độc lập với Liên đoàn bóng đá Anh. Sky là kênh phát sóng chủ yếu giải đấu này tại Vương quốc Anh và Ireland, sau này có thêm các kệnh khác cùng phát như ESPN, Setanta Sports, hiện nay là BT Sport, BT Sport bắt đầu nhảy vào tranh chấp miếng bánh ngon này với Sky, kênh truyền hình từ trước đến nay vốn độc quyền giải đấu trên lãnh thổ Anh từ năm 2013. Khi ấy, nhờ luật "đấu thầu mù" của Ngoại hạng Anh, hãng này bất ngờ lần đầu tiên giành quyền phát sóng 38 trận mỗi mùa. Từ khi BT Sport nhảy vào, giá bản quyền truyền hình trong lãnh thổ Anh tăng đột biến, từ 1,5 tỷ đôla mỗi mùa trong khoảng thời gian 2013–2016 lên 2,6 tỷ đôla trong giai đoạn 2016–2019. Tính ra, mỗi trận đấu từ năm 2016 sẽ có giá 15 triệu đôla chỉ riêng trên đất Anh. Số trận phát tại Vương quốc Anh và Ireland
Toàn thế giới[sửa | sửa mã nguồn]Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643 triệu hộ gia đình và khoảng 4,7 tỉ khán giả truyền hình. Tại Việt Nam, từ hơn 20 năm trước, người hâm mộ vẫn được thưởng thức miễn phí EPL trên truyền hình khi giải phát trên sóng VTV3. Nhưng sau đó, một số đài truyền hình trả tiền tại Việt Nam muốn tăng thị phần nên đã sẵn sàng bỏ ra hàng núi tiền để mua độc quyền bản quyền phát sóng EPL. Cuộc đua giữa các nhà đài luôn diễn ra rất căng thẳng khiến giá bản quyền EPL tăng với tốc độ phi mã. Kể từ năm 2010 đến nay, công ty truyền hình số vệ tinh VSTV (K+ - liên doanh giữa VTV và Canal Plus) đã đánh bật các đối thủ khác trong nước và trở thành đơn vị duy nhất sở hữu tất cả các trận đấu của mỗi mùa giải[113]. Khoảng cách với các giải đấu thấp hơn[sửa | sửa mã nguồn]Khoảng cách giữa Premier League và Football League ngày càng tăng. Kể từ khi tách khỏi Football League, nhiều câu lạc bộ sáng lập Premier League vẫn đang vật lộn ở các giải thi đấu thấp hơn. Do một phần lớn là sự chênh lệch về doanh thu bản quyền truyền hình giữa các giải đấu,[114] nhiều câu lạc bộ mới lên hạng rất khó khăn để trụ lại sau mùa giải đầu tiên của họ tại Premier League. Ở mọi mùa bóng trừ 2001–02, 2011–12 và 2017–18 có ít nhất một đội bóng mới lên Premier League phải quay trở lại với Football League. Mùa 1997–98, cả ba đội mới lên hạng đều phải xuống hạng vào cuối mùa bóng.[115] Premier League vẫn phân chia một phần doanh thu bản quyền truyền hình cho các câu lạc bộ phải xuống hạng. Bắt đầu từ mùa 2013–14, khoản này đã vượt quá 60 triệu bảng cho bốn mùa bóng.[116] Mặc dù đã có kế hoạch để giúp các đội bóng điều chỉnh sự không cân đối về doanh thu truyền hình (trung bình các đội Premier League nhận 55 triệu bảng[117] trong khi đó các câu lạc bộ Football League Championship chỉ là 2 triệu),[118] người ta cho rằng chính các khoản được chia này đã làm sâu thêm khoảng cách giữa các đội từng được tham dự Premier League với các câu lạc bộ khác,[119] dẫn đến việc các câu lạc bộ thường trở lại sau khi xuống hạng. Một vài câu lạc bộ không thể quay trở lại ngay với Premier League, các vấn đề về tài chính, bao gồm một vài trường hợp bị chính quyền tiếp quản hoặc thậm chí là phá sản.[120][121] Các sân vận động[sửa | sửa mã nguồn]Tính tới mùa 2017–18, Premier League đã được diễn ra trên 58 sân vận động kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League.[122] Sau thảm họa Hillsborough năm 1989 và kết quả của Báo cáo Taylor đề nghị loại bỏ khán đài đứng; kết quả là các sân vận động tại Premier League đều là khán đài ngồi.[123][124] Từ khi thành lập Premier League, các sân bóng ở Anh đã được nâng cấp sức chứa và cơ sở vật chất, một số câu lạc bộ còn chuyển tới những sân vận động xây mới.[125] 9 sân vận động từng diễn ra Premier League đã bị phá hủy. Các sân đấu của mùa 2010–11 sân có sức chứa lớn nhất là: Old Trafford, sân nhà của Manchester United với sức chứa 75,957[126] còn nhỏ nhất là Vitality stadium, sân nhà của Bournemouth A.F.C., với sức chứa 11464.[127] Tổng sức chứa của các sân vận động Premier League mùa 2017–18 là 806,033 trung bình là 40,302 một sân.[128] Khán giả tới sân là một nguồn thu đáng kể của các câu lạc bộ Premier League.[129] Mùa 2016–17, trung bình có 35,838 khán giả tới xem một trận đấu tại Premier League trong tổng số 13,618,596.[128] Con số này tăng 13,089 so với số 21,126 khán giả ghi nhận trong mùa giải đầu tiên (1992–93).[130] Tuy nhiên, sau mùa bóng 1992–93, sức chứa của các sân giảm xuống do phải loại bỏ khán đài đứng và đến hạn chót là mùa 1994–95 các sân phải bao gồm toàn bộ khán đài ngồi.[131][132] Kỉ lục trung bình khán giả tới sân tại Premier League là 36,144 được thiết lập vào mùa giải 2007–08.[133] Kỉ lục đó sau đó bị phá mùa 2013–14 với 36,695 khán giả, cao nhất kể từ năm 1950.[134] Huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]Huấn luyện viên tại Premier League phụ trách đội bóng ngày qua ngày bao gồm tập luyện, lựa chọn đội hình và mua bán cầu thủ. Tầm ảnh hưởng của họ thay đổi từ cầu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác và có liên quan tới chủ sở hữu đội bóng và mối quan hệ với các cổ động viên.[135] Các huấn luyện viên phải đạt chứng chỉ UEFA Pro Licence bằng cấp cao nhất, sau khi hoàn thành cả UEFA 'B' và 'A' Licences.[136] UEFA Pro Licence là yêu cầu cần thiết đối với những người muốn huấn luyện lâu dài tại Premier League (nghĩa là dưới 12 tuần là thời gian huấn luyện viên tạm quyền được cho phép huấn luyện đội bóng).[137] Vị trí tạm quyền sẽ được bổ nhiệm trong khoảng thời gian trống chờ đợi huấn luyện viên chính thức mới. Một vài huấn luyện viên đã được bổ nhiệm làm huấn luyện viên chính thức sau thời gian tạm quyền; ví dụ như trường hợp của Paul Hart ở Portsmouth hay David Pleat ở Tottenham Hotspur. Huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất là Alex Ferguson, người nắm quyền Manchester United từ tháng 11 năm 1986 tới khi nghỉ hưu mùa 2012–13, nghĩa là ông huấn luyện cả 21 mùa đầu tiên của Premier League. Arsène Wenger hiện là huấn luyện viên có thời gian làm việc dài nhất, khi dẫn dắt Arsenal tại Premier League từ 1996.[138]. Hiện tại ông đã không còn dẫn dắt Arsenal F.C Các huấn luyện viên giành chức vô địch[sửa | sửa mã nguồn]Cựu huấn luyện viên Manchester United Sir Alex Ferguson người huấn luyện lâu nhất và thành công nhất Premier League.
Các HLV hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]
Cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]Ra sân nhiều nhất
Số lần ra sân[sửa | sửa mã nguồn]Gareth Barry đang giữ kỉ lục số lần ra sân tại Premier League, nhiều hơn bất cứ cầu thủ nào.[140] Cầu thủ nước ngoài và quy định chuyển nhượng[sửa | sửa mã nguồn]Trong mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, ở vòng đấu mở màn chỉ có 11 cầu thủ ra sân trong đội hình xuất phát đến từ bên ngoài của Vương quốc Anh hoặc Ireland.[141] Tới mùa 2000–01, số cầu thủ nước ngoài tham dự Premier League là 36%. Mùa 2004–05 con số tăng lên 45%. Ngày 26 tháng 12 năm 1999, Chelsea trở thành đội bóng đầu tiên tại Premier League ra sân với toàn cầu thủ nước ngoài,[142] còn ngày 14 tháng 2 năm 2005, Arsenal trở thành đội bóng đầu tiên đăng ký cả 16 cầu thủ cho 1 trận đấu là người nước ngoài.[143] Tới năm 2009, chỉ còn dưới 40% cầu thủ tham dự Premier League là người Anh.[144] Để đối phó với những lo ngại rằng các câu lạc bộ ngày càng bỏ qua các cầu thủ trẻ Anh để sử dụng các cầu thủ nước ngoài, năm 1999, Cục Xuất nhập cảnh Vương quốc Anh thắt chặt quy định của cấp giấy phép lao động cho cầu thủ đến từ ngoài Liên minh châu Âu.[145] Một cầu thủ ngoài EU chỉ được cấp giấy phép lao động khi thi đấu 75% số trận đấu hạng 'A' mà cầu thủ đó được lựa chọn trong vòng 2 năm, và quốc gia của cầu thủ đó trung bình phải xếp ít nhất là thứ 70 trong bảng xếp hạng FIFA trong vòng 2 năm. Nếu 1 cầu thủ không đạt được những tiêu chí đó, câu lạc bộ muốn ký hợp đồng với cầu thủ đó có thể đưa ra lời yêu cầu.[146] Các cầu thủ sẽ chỉ được chuyển nhượng khi thị trường chuyển nhượng mở cửa bởi Hiệp hội bóng đá. Sẽ có 2 kỳ chuyển nhượng bắt đầu từ ngày cuối cùng của mùa giải tới 31 tháng 8 và từ 31 tháng 12 tới 31 tháng Giêng. Cầu thủ đã được đăng ký sẽ không được thay đổi trong kì chuyển nhượng đó trừ khi có giấy phép đặc biệt từ FA, thường là trong trường hợp khẩn.[147] Tới mùa 2010–11, Premier League đưa ra luật mới về việc các câu lạc bộ chỉ được phép đăng ký tối đa 25 cầu thủ trên 21 tuổi, cùng với đó là danh sách đội hình chỉ được phép thay đổi trong kì chuyển nhượng hoặc trong trường hợp đặc biệt. Cùng với đó là khái niệm 'home grown' cũng được áp dụng, theo đó cũng từ năm 2010 ít nhất là 8 trong số 25 cầu thủ đăng ký phải là 'cầu thủ home-grown'.[148][149] Lương cầu thủ và phí chuyển nhượng[sửa | sửa mã nguồn]Không có mức lương trần dành cho một cá nhân hay một đội bóng nào tại Premier League. Đây là kết quả của những bản hợp đồng bản quyền truyền hình ngày càng hấp dẫn, lương các cầu thủ tăng mạnh kể từ khi Premier League ra đời khi mà mức lương trung bình của cầu thủ chỉ là 75.000 bảng Anh một năm.[150] Mức lương trung bình vào mùa 2008–09 là 1,1 triệu bảng.[151] Tới năm 2015, trung bình lương của Premier League cao nhất trong các giải bóng đá trên thế giới.[152] Kỷ lục chuyển nhượng dành cho một cầu thủ Premier League tăng đều đặn qua từng năm. Trước khi bắt đầu mùa giải Premier League đầu tiên Alan Shearer mới trở thành cầu Anh có mức chuyển nhượng trên 3 triệu bảng.[153] Các kỷ lục tăng đều đặn trong vài mùa giải đầu tiên ở Premier League, cho đến khi Alan Shearer đã phá vỡ kỷ lục 15 triệu bảng khi chuyển tới Newcastle United vào năm 1996.[153] Ba kỉ lục chuyển nhượng cao nhất lịch sử thể thao thì đều là các câu lạc bộ Premier League bán đi, khi Tottenham Hotspur bán Gareth Bale cho Real Madrid với giá 85 triệu bảng năm 2013,[154] Manchester United bán Cristiano Ronaldo cho Real Madrid với mức giá 80 triệu bảng năm 2009,[155] và Liverpool bán Luis Suárez cho Barcelona thu về 75 triệu năm 2014.[156] Giá trị chuyển nhượng[sửa | sửa mã nguồn]Phí chuyển nhượng cao nhất ở ngoại hạng Anh
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu[sửa | sửa mã nguồn]Alan Shearer là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất lịch sử Premier League.Tính đến 4 tháng 11 năm 2018.
Nghiêng cầu thủ vẫn đang thi đấu chuyên nghiệp. Chiếc giày vàng được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại Premier League vào cuối mỗi mùa bóng. Cựu tiền đạo Blackburn Rovers và Newcastle United Alan Shearer đang giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League với 260.[182] Hai mươi tư cầu thủ đã đạt cột mốc 100 bàn thắng.[183] Kể từ mùa giải Premier League đầu tiên 1992–93, 14 cầu thủ đến từ 10 câu lạc bộ khác nhau đã giành hoặc chia sẻ danh hiệu vua phá lưới giải đấu.[184] Thierry Henry giành danh hiệu vua phá lưới thứ tư với 27 bàn vào mùa 2005–06. Andrew Cole và Alan Shearer cùng nhau giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giải (34) – cho lần lượt Newcastle và Blackburn.[185] Ryan Giggs của Manchester United giữ kỉ lục ghi bàn trong nhiều mùa liên tiếp nhất, với việc ghi bàn trong cả 21 mùa giải đầu tiên.[186] Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]Cúp[sửa | sửa mã nguồn]Cúp Premier LeaguePremier League có 2 chiếc cúp – một chiếc cúp thật (được giữ bởi nhà đương kim vô địch) và một bản sao dự trữ. Hai chiếc cúp sẽ được sử dụng trong trường hợp hai câu lạc bộ có thể có cơ hội vô địch ở ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải.[187] Trong trường hợp có nhiều hơn hai đội cùng cạnh tranh nhau chức vô địch trong ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải – thì một bản sao từng được giành bởi một câu lạc bộ trước đó sẽ được sử dụng.[188] Chiếc cúp Premier League hiện tại được tạo ra bởi Royal Jewellers Asprey of London. Chiếc cúp bao gồm thân cúp với chiếc vương miện bằng vàng và chiếc đế bằng malachit. Chiếc đế nặng 33 pound (15 kg) còn thân cúp nặng 22 pound (10,0 kg).[189] Cả thân và đế cao 76 cm (30 in), rộng 43 cm (17 in) và sâu 25 cm (9,8 in).[190] Thân chính được làm từ bạc đặc thật và bạc mạ vàng, trong khi đó đế được làm từ malachit, một loại đá quý. Đế có một dải bạc xung quanh chu vi của nó, nơi ghi tên các nhà vô địch giải đấu. Malachit màu xanh cũng là tượng trưng cho màu xanh của cỏ trên sân.[190] Chiếc cúp được thiết kế dựa trên huy hiệu của Tam Sư kết hợp với bóng đá Anh. Hai con sư tử được đặt ở hai bên chiếc cúp phía trên tay nắm– con thứ ba được biểu tượng chính là người đội trưởng của đội vô địch người nâng cao chiếc cúp, và khi ấy chiếc vương miện vàng sẽ ở trên đầu của anh ta.[191] Các ruy băng treo lên tay nắm được thể hiện bằng màu của đội vô địch giải đấu năm đó. Năm 2004, một phiên bản vàng đặc biệt được trao cho Arsenal khi họ giành chức vô địch mà không để thua một trận đấu nào.[192] Các giải thưởng cho cầu thủ và huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]Bên cạnh việc cúp dành cho đội vô địch và huy chương dành cho các cá nhân cầu thủ, Premier League cũng trao các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng và Cầu thủ xuất sắc nhất hàng tháng.[193] Có cả các giải Huấn luyện viên xuất sắc nhất mùa giải,[194] Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải.[195] Hàng năm có giải Chiếc giày vàng và Găng tay vàng hàng năm.[196] Giải thưởng 20 năm[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2012, Premier League kỉ niệm thập niên thứ hai bằng lễ trao Giải thưởng 20 năm:[197]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Currently, we are nine weeks into the 2022 NFL season and we have already been subjected to plenty of surprises. Running backs are expected to carry the load because consistency has been difficult to achieve. NFL 2022 is unique in its own right. First, we saw ten trades and teams swinging around some of the biggest names this year. We also saw many teams go all in but get nothing. But that is not all. NFL 2022 is only halfway through, and we believe there will be many more surprises. We have seen many new and unexpected players perform while some stars have faltered. Here is a list of the top 5 rushers in the NFL in 2022. Also Read: Tom Brady 100k Yards: How Many Passing Yards Does Tom Brady Have In His Career? Top 5 Rushers Of 2022 NFL SeasonNick Chubb, 841 Yards Nick Chubb currently holds the lead with 841 yards. Chubb began the 2022 season with 22 carries for 141 rushing yards in a 26-24 win over the Carolina Panthers; since then, his stats have grown.
Saquon Barkley, 779 Yards With 779 yards, Saquon Barkley is second. In a 21-20 comeback win over the Tennessee Titans in Week 1, Barkley rushed for 164 yards and a touchdown while also catching six passes for 30 yards. Late in the fourth quarter, he converted the game-winning two-point conversion.
Derrick Henry, 755 Yards With 755 yards, Henry is third on the list. He, carried the ball 32 times for 219 yards and two touchdowns in a 17-10 victory over the Houston Texans. He has now rushed for 700 yards or more this season
Josh Jacobs, 743 yards Josh Jacobs has 743 yards and is fourth. Jacobs ran for 144 yards and two touchdowns in a 23-32 victory over the Denver Broncos, setting a career high in yardage. In the Raiders’ 29-30 loss to the Kansas City Chiefs the following week, Josh Jacobs ran for 154 yards, a career high
. Travis Etienne, 680 Yards Travis Etienne, a running back in his second year, is fifth with 680 yards and has only been playing for a season. He is currently Jaguras’ No. 1 running back.
Also Read: Most QB Rushing Yards In A Game : Is Justin Fields TD Run Against Dolphins the Longest by an NFL Quarterback? © 2005-2022 Team Rankings, LLC. All Rights Reserved. Statistical data provided by Gracenote. TeamRankings.com is not affiliated with the National Collegiate Athletic Association (NCAA®) or March Madness Athletic Association, neither of which has supplied, reviewed, approved or endorsed the material on this site. TeamRankings.com is solely responsible for this site but makes no guarantee about the accuracy or completeness of the information herein.
Josh JacobsJ. Jacobs LV 13 269 1,402 5.21 107.8 86t 11 77 Nick ChubbN. Chubb CLE 12 217 1,119 5.16 93.2 41t 12 50 Derrick HenryD. Henry TEN 12 258 1,078 4.18 89.8 56 10 46 Saquon BarkleyS. Barkley NYG 12 242 1,055 4.36 87.9 68 8 46 Dalvin CookD. Cook MIN 12 198 927 4.68 77.2 81t 7 40 Miles SandersM. Sanders PHI 12 187 924 4.94 77.0 35 9 48 Justin FieldsJ. Fields CHI 12 128 905 7.07 75.4 67t 8 57 Dameon PierceD. Pierce HOU 12 198 861 4.35 71.8 75t 3 50 Jonathan TaylorJ. Taylor IND 10 192 861 4.48 86.1 66t 4 39 Tony PollardT. Pollard DAL 12 148 852 5.76 71.0 57t 8 37 Aaron JonesA. Jones GB 13 164 847 5.16 65.2 36 2 43 Travis EtienneT. Etienne JAX 12 146 782 5.36 65.2 49 4 38 Jamaal WilliamsJ. Williams DET 12 188 769 4.09 64.1 51t 14 53 Lamar JacksonL. Jackson BAL 12 112 764 6.82 63.7 79t 3 47 Rhamondre StevensonR. Stevenson NE 12 161 734 4.56 61.2 49 4 39 Christian McCaffreyC. McCaffrey CAR/SF 12 160 700 4.38 58.3 49 4 35 Jeffery WilsonJ. Wilson SF/MIA 12 132 680 5.15 56.7 41 4 33 Najee HarrisN. Harris PIT 12 175 671 3.83 55.9 36 4 27 Ezekiel ElliottE. Elliott DAL 10 157 654 4.17 65.4 27 8 40 Kenneth WalkerK. Walker SEA 11 138 649 4.70 59.0 74t 9 32 Khalil HerbertK. Herbert CHI 10 108 643 5.95 64.3 63 4 22 David MontgomeryD. Montgomery CHI 12 160 641 4.01 53.4 28 4 35 AJ DillonA. Dillon GB 13 143 624 4.36 48.0 27 3 35 Jalen HurtsJ. Hurts PHI 12 132 609 4.61 50.8 42 9 53 Joe MixonJ. Mixon CIN 10 158 605 3.83 60.5 31 6 36 Tyler AllgeierT. Allgeier ATL 12 131 604 4.61 50.3 44 1 28 Devin SingletaryD. Singletary BUF 12 137 603 4.40 50.2 30 4 32 Austin EkelerA. Ekeler LAC 12 138 589 4.27 49.1 71 7 25 Josh AllenJ. Allen BUF 12 89 581 6.53 48.4 36t 5 42 Raheem MostertR. Mostert MIA 11 125 573 4.58 52.1 25 3 30 Cordarrelle PattersonC. Patterson ATL 9 108 566 5.24 62.9 40 5 32 D'Onta ForemanD. Foreman CAR 12 126 563 4.47 46.9 60 4 27 Brian RobinsonB. Robinson WAS 9 147 563 3.83 62.6 24 2 38 Alvin KamaraA. Kamara NO 11 143 550 3.85 50.0 27 1 26 Daniel JonesD. Jones NYG 12 91 522 5.74 43.5 24 4 42 Isiah PachecoI. Pacheco KC 12 111 521 4.69 43.4 28 3 21 Antonio GibsonA. Gibson WAS 13 139 515 3.71 39.6 20 3 31 Leonard FournetteL. Fournette TB 11 145 511 3.52 46.5 17 3 31 James ConnerJ. Conner ARI 9 121 476 3.93 52.9 20 4 32 Breece HallB. Hall NYJ 7 80 463 5.79 66.1 62t 4 20 Marcus MariotaM. Mariota ATL 13 85 438 5.15 33.7 30 4 30 James RobinsonJ. Robinson NYJ/JAX 11 110 425 3.86 38.6 50t 3 22 Kenyan DrakeK. Drake BAL 10 92 421 4.58 42.1 40 3 19 Taysom HillT. Hill NO 12 61 419 6.87 34.9 60t 5 23 Kareem HuntK. Hunt CLE 12 102 417 4.09 34.8 24t 3 28 Kyler MurrayK. Murray ARI 10 66 415 6.29 41.5 42 3 23 Latavius MurrayL. Murray DEN/NO 8 104 405 3.89 50.6 52 4 20 Damien HarrisD. Harris NE 9 84 383 4.56 42.6 30 3 19 Cam AkersC. Akers LA 11 113 376 3.33 34.2 15 4 21 Michael CarterM. Carter NYJ 11 99 370 3.74 33.6 25 3 13 Caleb HuntleyC. Huntley ATL 11 75 364 4.85 33.1 30 1 18 D'Andre SwiftD. Swift DET 9 64 354 5.53 39.3 50 4 13 Rashaad PennyR. Penny SEA 5 57 346 6.07 69.2 41t 2 15 Samaje PerineS. Perine CIN 12 74 327 4.42 27.2 29 1 17 James CookJ. Cook BUF 12 60 323 5.38 26.9 33 1 14 Melvin GordonM. Gordon DEN 10 90 318 3.53 31.8 17 2 15 Rachaad WhiteR. White TB 12 83 314 3.78 26.2 35 1 18 Clyde Edwards-HelaireC. Edwards-Helaire KC 10 71 302 4.25 30.2 52 3 15 Eno BenjaminE. Benjamin ARI 10 70 299 4.27 29.9 45 2 14 Darrell HendersonD. Henderson LA 10 70 283 4.04 28.3 23 3 14 Patrick MahomesP. Mahomes KC 12 44 283 6.43 23.6 20 2 19 Geno SmithG. Smith SEA 12 52 243 4.67 20.2 24 1 16 Jacoby BrissettJ. Brissett CLE 12 47 238 5.06 19.8 22 2 26 Mark IngramM. Ingram NO 10 62 233 3.76 23.3 14 1 12 Justice HillJ. Hill BAL 10 41 225 5.49 22.5 34 0 10 Joe BurrowJ. Burrow CIN 12 59 224 3.80 18.7 23 5 21 Elijah MitchellE. Mitchell SF 4 40 224 5.60 56.0 19 0 11 Trevor LawrenceT. Lawrence JAX 12 43 211 4.91 17.6 24 3 17 Kenny PickettK. Pickett PIT 9 42 209 4.98 23.2 23 3 17 Deebo SamuelD. Samuel SF 11 37 207 5.59 18.8 51 2 7 Javonte WilliamsJ. Williams DEN 4 47 204 4.34 51.0 17 0 9 Jerick McKinnonJ. McKinnon KC 12 47 200 4.26 16.7 30 0 7 Gus EdwardsG. Edwards BAL 4 49 195 3.98 48.8 22 3 16 Jaylen WarrenJ. Warren PIT 11 39 195 5.00 17.7 21 0 12 Curtis SamuelC. Samuel WAS 13 31 188 6.06 14.5 21 1 11 Kenny GainwellK. Gainwell PHI 12 41 183 4.46 15.2 13 4 13 Chuba HubbardC. Hubbard CAR 10 41 176 4.29 17.6 17t 1 11 Alexander MattisonA. Mattison MIN 12 48 174 3.63 14.5 15 3 12 Zonovan KnightZ. Knight NYJ 2 29 159 5.48 79.5 48 0 6 Russell WilsonR. Wilson DEN 11 37 158 4.27 14.4 18 1 11 Dontrell HilliardD. Hilliard TEN 11 22 145 6.59 13.2 30 0 4 Joshua KelleyJ. Kelley LAC 8 32 138 4.31 17.2 16 1 8 Deon JacksonD. Jackson IND 12 44 136 3.09 11.3 17 1 9 Chase EdmondsC. Edmonds DEN/MIA 10 46 135 2.93 13.5 28 2 6 Justin HerbertJ. Herbert LAC 12 41 135 3.29 11.2 23 0 13 Justin JacksonJ. Jackson DET 12 30 134 4.47 11.2 27 0 7 Boston ScottB. Scott PHI 10 37 124 3.35 12.4 19 1 5 J.K. DobbinsJ. Dobbins BAL 4 35 123 3.51 30.8 17 1 10 Zack MossZ. Moss BUF/IND 9 24 122 5.08 13.6 43 0 4 JaMycal HastyJ. Hasty JAX 12 25 120 4.80 10.0 61t 1 3 Matt BreidaM. Breida NYG 12 34 112 3.29 9.3 13 1 9 Kyren WilliamsK. Williams LA 6 25 108 4.32 18.0 17 0 5 Sony MichelS. Michel LAC 10 36 106 2.94 10.6 12 0 8 DeeJay DallasD. Dallas SEA 12 24 104 4.33 8.7 16 0 5 Malik DavisM. Davis DAL 7 23 103 4.48 14.7 23t 1 4 Craig ReynoldsC. Reynolds DET 8 23 102 4.43 12.8 21 0 4 Darrel WilliamsD. Williams ARI 6 21 102 4.86 17.0 30 1 8 Mike BooneM. Boone DEN 8 21 100 4.76 12.5 18 0 6 Jordan MasonJ. Mason SF 11 18 97 5.39 8.8 19 0 5 Ty JohnsonT. Johnson NYJ 12 15 95 6.33 7.9 32t 1 2 J.D. McKissicJ. McKissic WAS 8 22 95 4.32 11.9 33 0 5 Zach WilsonZ. Wilson NYJ 7 24 94 3.92 13.4 18 1 6 Bryce PerkinsB. Perkins LA 4 18 92 5.11 23.0 23 0 6 Braxton BerriosB. Berrios NYJ 12 9 91 10.11 7.6 25 2 5 Derek CarrD. Carr LV 13 21 88 4.19 6.8 20 0 9 Mac JonesM. Jones NE 9 30 88 2.93 9.8 15 1 9 Benjamin SnellB. Snell PIT 12 18 86 4.78 7.2 16 1 6 Devin DuvernayD. Duvernay BAL 12 12 84 7.00 7.0 18 1 7 Rex BurkheadR. Burkhead HOU 11 24 83 3.46 7.5 9 0 4 Amon-Ra St. BrownA. St. Brown DET 11 6 83 13.83 7.5 58 0 2 Avery WilliamsA. Williams ATL 13 14 83 5.93 6.4 21 1 4 Ryan TannehillR. Tannehill TEN 10 29 81 2.79 8.1 17 1 10 Carson WentzC. Wentz WAS 6 19 79 4.16 13.2 18 0 3 Jonathan WilliamsJ. Williams WAS 9 11 77 7.00 8.6 23 0 5 Malik WillisM. Willis TEN 6 19 72 3.79 12.0 17 0 3 Dak PrescottD. Prescott DAL 7 19 71 3.74 10.1 25 1 8 Matt RyanM. Ryan IND 11 24 70 2.92 6.4 39 1 9 Christian WatsonC. Watson GB 10 5 68 13.60 6.8 46t 2 2 Taylor HeinickeT. Heinicke WAS 7 23 67 2.91 9.6 9 1 4 Trey LanceT. Lance SF 2 16 67 4.19 33.5 13 0 7 Aaron RodgersA. Rodgers GB 13 20 67 3.35 5.2 18 0 5 Baker MayfieldB. Mayfield CAR/LA 8 20 62 3.10 7.8 17 1 5 Zamir WhiteZ. White LV 12 15 62 4.13 5.2 22 0 4 Chase ClaypoolC. Claypool PIT/CHI 13 9 59 6.56 4.5 15 0 3 Kirk CousinsK. Cousins MIN 12 25 58 2.32 4.8 17t 2 8 Anthony SchwartzA. Schwartz CLE 11 4 57 14.25 5.2 31t 1 2 Kadarius ToneyK. Toney KC/NYG 5 4 56 14.00 11.2 32 0 2 Darrynton EvansD. Evans CHI 4 12 55 4.58 13.8 21 0 3 Andy DaltonA. Dalton NO 10 24 54 2.25 5.4 14 0 4 Trestan EbnerT. Ebner CHI 13 24 54 2.25 4.2 11 0 2 Sam EhlingerS. Ehlinger IND 2 11 54 4.91 27.0 19 0 3 Equanimeous St. BrownE. St. Brown CHI 13 6 54 9.00 4.2 41 0 2 Brandon PowellB. Powell LA 13 12 53 4.42 4.1 20 0 4 Keaontay IngramK. Ingram ARI 7 21 52 2.48 7.4 13 1 3 Cooper KuppC. Kupp LA 9 9 52 5.78 5.8 20t 1 4 Gary BrightwellG. Brightwell NYG 12 9 50 5.56 4.2 15 1 4 Rashid ShaheedR. Shaheed NO 8 3 50 16.67 6.2 44t 1 2 Laviska ShenaultL. Shenault CAR 8 6 50 8.33 6.2 41t 1 1 Phillip LindsayP. Lindsay IND 3 15 49 3.27 16.3 15 0 1 Velus JonesV. Jones CHI 8 6 48 8.00 6.0 18 0 3 CeeDee LambC. Lamb DAL 12 9 46 5.11 3.8 14 0 3 Spencer BrownS. Brown CAR 2 9 43 4.78 21.5 7 0 1 Travis HomerT. Homer SEA 7 9 43 4.78 6.1 7 0 3 Jared GoffJ. Goff DET 12 21 42 2.00 3.5 10 0 3 Hassan HaskinsH. Haskins TEN 11 10 42 4.20 3.8 9 0 2 Isaiah McKenzieI. McKenzie BUF 11 7 42 6.00 3.8 18 1 3 Raheem BlackshearR. Blackshear CAR 8 15 41 2.73 5.1 12 1 4 Tyler HuntleyT. Huntley BAL 2 10 41 4.10 20.5 14 1 5 Isaiah SpillerI. Spiller LAC 5 18 41 2.28 8.2 11 0 2 Mack HollinsM. Hollins LV 13 4 40 10.00 3.1 17 0 2 Malcolm BrownM. Brown LA 7 15 39 2.60 5.6 10 0 0 D.J. MooreD. Moore CAR 12 7 39 5.57 3.2 11 0 1 Phillip WalkerP. Walker CAR 6 6 39 6.50 6.5 20 0 3 Davis MillsD. Mills HOU 10 17 38 2.24 3.8 8 1 4 Dwayne WashingtonD. Washington NO 12 11 38 3.45 3.2 8 0 2 Tyrion Davis-PriceT. Davis-Price SF 3 16 37 2.31 12.3 20 0 2 Dante PettisD. Pettis CHI 13 2 37 18.50 2.9 29 0 2 Tua TagovailoaT. Tagovailoa MIA 10 19 35 1.84 3.5 18 0 2 Brandon BoldenB. Bolden LV 12 8 34 4.25 2.8 12 0 1 Steven SimsS. Sims PIT 7 9 34 3.78 4.9 11 0 3 Jimmy GaroppoloJ. Garoppolo SF 11 23 33 1.43 3.0 6 2 11 Jamal AgnewJ. Agnew JAX 10 6 32 5.33 3.2 19 0 3 Julio JonesJ. Jones TB 7 4 32 8.00 4.6 15 0 3 John WolfordJ. Wolford LA 3 8 32 4.00 10.7 14 0 2 Parris CampbellP. Campbell IND 13 3 31 10.33 2.4 28 0 1 Mecole HardmanM. Hardman KC 8 4 31 7.75 3.9 25t 2 3 Jordan WilkinsJ. Wilkins IND 2 6 31 5.17 15.5 9 0 2 Tyreek HillT. Hill MIA 12 6 30 5.00 2.5 10 0 2 Anthony McFarlandA. McFarland PIT 1 6 30 5.00 30.0 14 0 3 Dare OgunbowaleD. Ogunbowale HOU 12 7 30 4.29 2.5 9 1 3 Tyrod TaylorT. Taylor NYG 1 3 30 10.00 30.0 13 0 3 Montrell WashingtonM. Washington DEN 12 5 30 6.00 2.5 19 0 0 Gunner OlszewskiG. Olszewski PIT 11 5 29 5.80 2.6 18 0 1 Mitchell TrubiskyM. Trubisky PIT 5 13 29 2.23 5.8 9 1 3 Nyheim HinesN. Hines BUF/IND 12 22 28 1.27 2.3 9 1 2 Trayveon WilliamsT. Williams CIN 4 5 28 5.60 7.0 16 0 1 Chatarius AtwellC. Atwell LA 9 7 27 3.86 3.0 9 0 1 Tevin ColemanT. Coleman SF 4 12 26 2.17 6.5 14 1 2 Myles GaskinM. Gaskin MIA 3 10 26 2.60 8.7 10 0 2 Trace McSorleyT. McSorley ARI 3 4 26 6.50 8.7 14 0 1 D.J. TurnerD. Turner LV 9 4 26 6.50 2.9 18 0 1 Jalen ReagorJ. Reagor MIN 12 2 25 12.50 2.1 17 0 1 Justin JeffersonJ. Jefferson MIN 12 4 24 6.00 2.0 10 1 2 George PickensG. Pickens PIT 12 3 24 8.00 2.0 22 1 2 Kalif RaymondK. Raymond DET 12 5 24 4.80 2.0 12 0 2 Armani RogersA. Rogers WAS 10 1 24 24.00 2.4 24 0 1 KJ HamlerK. Hamler DEN 7 2 23 11.50 3.3 14 0 1 Diontae JohnsonD. Johnson PIT 12 6 23 3.83 1.9 8 0 1 Tony JonesT. Jones NO/SEA 5 9 22 2.44 4.4 7 0 3 Teddy BridgewaterT. Bridgewater MIA 4 2 21 10.50 5.2 11 0 2 Zay JonesZ. Jones JAX 11 3 21 7.00 1.9 14 0 1 Ronnie RiversR. Rivers LA 5 9 21 2.33 4.2 5 0 1 Ke'Shawn VaughnK. Vaughn TB 10 8 21 2.63 2.1 6 0 1 Deshaun WatsonD. Watson CLE 1 7 21 3.00 21.0 11 0 0 Ameer AbdullahA. Abdullah LV 13 4 20 5.00 1.5 7 0 2 Trey SermonT. Sermon PHI 2 2 19 9.50 9.5 14 0 2 Mike DavisM. Davis BAL 8 8 18 2.25 2.2 10 0 1 Snoop ConnerS. Conner JAX 4 4 17 4.25 4.2 6 0 0 D'Ernest JohnsonD. Johnson CLE 10 4 17 4.25 1.7 7 0 1 Terry McLaurinT. McLaurin WAS 13 6 17 2.83 1.3 7 0 1 Bennett SkowronekB. Skowronek LA 13 1 17 17.00 1.3 17t 1 1 KaVontae TurpinK. Turpin DAL 12 3 17 5.67 1.4 11 0 1 Jaylen WaddleJ. Waddle MIA 12 2 17 8.50 1.4 9 0 0 Tyquan ThorntonT. Thornton NE 8 3 16 5.33 2.0 19t 1 1 Jameis WinstonJ. Winston NO 3 5 16 3.20 5.3 6 0 0 Jeff DriskelJ. Driskel HOU 2 2 15 7.50 7.5 10 0 2 Trent TaylorT. Taylor CIN 12 4 15 3.75 1.2 9 0 0 Derek WattD. Watt PIT 12 5 15 3.00 1.2 4 0 5 Kyle JuszczykK. Juszczyk SF 11 5 14 2.80 1.3 9 1 3 Patrick RicardP. Ricard BAL 12 5 14 2.80 1.2 5 0 4 Skylar ThompsonS. Thompson MIA 5 10 14 1.40 2.8 9 0 1 Salvon AhmedS. Ahmed MIA 7 4 13 3.25 1.9 7 0 1 Kyle AllenK. Allen HOU 2 6 13 2.17 6.5 5 0 2 Julius ChestnutJ. Chestnut TEN 1 5 13 2.60 13.0 5 0 1 Kendall HintonK. Hinton DEN 10 1 13 13.00 1.3 13 0 1 C.J. MooreC. Moore DET 6 1 13 13.00 2.2 13 0 1 Treylon BurksT. Burks TEN 8 2 12 6.00 1.5 8 0 1 Ronald Jones IIR. Jones KC 2 4 12 3.00 6.0 5 0 1 Skyy MooreS. Moore KC 12 1 12 12.00 1.0 12 0 1 Romeo DoubsR. Doubs GB 9 1 11 11.00 1.2 11 0 1 Trenton IrwinT. Irwin CIN 5 1 11 11.00 2.2 11 0 1 D'Wayne EskridgeD. Eskridge SEA 10 2 10 5.00 1.0 6 0 0 Marlon MackM. Mack DEN 2 4 10 2.50 5.0 7 0 0 Colt McCoyC. McCoy ARI 2 7 10 1.43 5.0 4 0 3 Cole KmetC. Kmet CHI 13 2 9 4.50 0.7 8 0 1 Jakobi MeyersJ. Meyers NE 10 2 9 4.50 0.9 7 0 2 Brett RypienB. Rypien DEN 1 3 9 3.00 9.0 6 0 2 Matthew StaffordM. Stafford LA 9 13 9 0.69 1.0 4 1 3 J.J. TaylorJ. Taylor NE 1 10 9 0.90 9.0 5 0 0 Mike WhiteM. White NYJ 2 6 9 1.50 4.5 4 1 3 Mark AndrewsM. Andrews BAL 11 3 8 2.67 0.7 4 0 3 Kendrick BourneK. Bourne NE 11 4 8 2.00 0.7 15 0 1 Harrison BryantH. Bryant CLE 12 1 8 8.00 0.7 8 0 1 Alexander HorvathA. Horvath LAC 12 4 8 2.00 0.7 3 0 2 Scott MillerS. Miller TB 10 1 8 8.00 0.8 8 0 0 Trevor SiemianT. Siemian CHI 2 4 8 2.00 4.0 6 0 1 Cedrick WilsonC. Wilson MIA 11 1 8 8.00 0.7 8 0 0 Brandon AiyukB. Aiyuk SF 12 1 7 7.00 0.6 7 0 0 Michael BurtonM. Burton KC 12 4 7 1.75 0.6 6 0 2 Brandin CooksB. Cooks HOU 10 2 7 3.50 0.7 5 0 0 Marquise GoodwinM. Goodwin SEA 10 1 7 7.00 0.7 7 0 0 Kylin HillK. Hill GB 2 1 7 7.00 3.5 7 0 1 Christian KirkC. Kirk JAX 12 4 7 1.75 0.6 5 0 0 Olamide ZaccheausO. Zaccheaus ATL 13 2 7 3.50 0.5 13 0 1 Joe FlaccoJ. Flacco NYJ 3 3 6 2.00 2.0 7 0 1 C.J. HamC. Ham MIN 12 2 6 3.00 0.5 3t 1 2 Alec IngoldA. Ingold MIA 12 5 6 1.20 0.5 2 1 4 Richie JamesR. James NYG 12 2 6 3.00 0.5 4 0 0 K.J. OsbornK. Osborn MIN 12 3 6 2.00 0.5 5 0 2 Cooper RushC. Rush DAL 8 9 6 0.67 0.8 6 0 1 Patrick TaylorP. Taylor GB 10 1 6 6.00 0.6 6 0 1 Chris GodwinC. Godwin TB 10 3 5 1.67 0.5 2 0 0 Travis KelceT. Kelce KC 12 2 5 2.50 0.4 4 0 1 Chris MooreC. Moore HOU 11 2 5 2.50 0.5 3 0 0 Jonnu SmithJ. Smith NE 11 1 5 5.00 0.5 5 0 1 Pierre StrongP. Strong NE 10 1 5 5.00 0.5 5 0 0 Courtland SuttonC. Sutton DEN 12 1 5 5.00 0.4 5 0 0 Marcus AllenM. Allen PIT 12 1 4 4.00 0.3 4 0 1 Jason CabindaJ. Cabinda DET 4 1 4 4.00 1.0 4 0 1 Greg DortchG. Dortch ARI 11 2 4 2.00 0.4 3 0 0 Kevin HarrisK. Harris NE 2 4 4 1.00 2.0 3 0 0 Duke JohnsonD. Johnson BUF 1 2 4 2.00 4.0 4 0 1 Josh PalmerJ. Palmer LAC 11 1 4 4.00 0.4 4 0 1 Garrett WilsonG. Wilson NYJ 12 4 4 1.00 0.3 7 0 0 Sam DarnoldS. Darnold CAR 1 3 3 1.00 3.0 2t 1 1 Ashton DulinA. Dulin IND 9 1 3 3.00 0.3 3 0 0 Jerome FordJ. Ford CLE 8 3 3 1.00 0.4 4 0 0 M.J. StewartM. Stewart HOU 12 1 3 3.00 0.2 3 0 1 Daniel BellingerD. Bellinger NYG 8 1 2 2.00 0.2 2t 1 1 Sean ChandlerS. Chandler CAR 12 1 2 2.00 0.2 2 0 1 Ja'Marr ChaseJ. Chase CIN 8 4 2 0.50 0.2 4 0 0 Jaelon DardenJ. Darden TB 12 1 2 2.00 0.2 2 0 0 Ashtyn DavisA. Davis NYJ 10 1 2 2.00 0.2 2 0 1 Peyton HendershotP. Hendershot DAL 12 1 2 2.00 0.2 2t 1 1 Darnell MooneyD. Mooney CHI 12 1 2 2.00 0.2 2 0 0 Elijah MooreE. Moore NYJ 11 4 2 0.50 0.2 10 0 1 Foster MoreauF. Moreau LV 11 0 2 0.00 0.2 2 0 0 Devine OzigboD. Ozigbo DEN 3 1 2 2.00 0.7 2 0 0 Donovan Peoples-JonesD. Peoples-Jones CLE 12 1 2 2.00 0.2 2 0 0 Adam PrenticeA. Prentice NO 7 1 2 2.00 0.3 2 0 1 Brock PurdyB. Purdy SF 4 9 2 0.22 0.5 5 0 1 Keith SmithK. Smith ATL 13 1 2 2.00 0.1 2 0 1 Damien WilliamsD. Williams ATL 1 2 2 1.00 2.0 2 0 0 Tyler ConklinT. Conklin NYJ 12 1 1 1.00 0.1 1 0 1 Noah GrayN. Gray KC 12 1 1 1.00 0.1 1t 1 1 Jordan HowardJ. Howard NO 2 1 1 1.00 0.5 1 0 0 Jerry JeudyJ. Jeudy DEN 10 1 1 1.00 0.1 1 0 1 Kene NwangwuK. Nwangwu MIN 12 4 1 0.25 0.1 4 0 0 Durham SmytheD. Smythe MIA 11 2 1 0.50 0.1 1t 1 1 Bryan AngerB. Anger DAL 12 0 0 0.00 0.0 0 0 0 Evan EngramE. Engram JAX 12 1 0 0.00 0.0 0 0 0 Gerald EverettG. Everett LAC 11 1 0 0.00 0.0 0 0 0 Clayton FejedelemC. Fejedelem MIA 8 1 0 0.00 0.0 0 0 0 Kylen GransonK. Granson IND 12 1 0 0.00 0.0 0 0 0 Case KeenumC. Keenum BUF 2 5 0 0.00 0.0 4 0 0 Zach PascalZ. Pascal PHI 12 1 0 0.00 0.0 0 0 0 Bailey ZappeB. Zappe NE 4 10 0 0.00 0.0 5 0 0 Davante AdamsD. Adams LV 13 3 -1 -0.33 -0.1 4 0 0 Brandon AllenB. Allen CIN 1 3 -1 -0.33 -1.0 2 0 1 C.J. BeathardC. Beathard JAX 2 1 -1 -1.00 -0.5 -1 0 0 Andrew BeckA. Beck DEN 9 1 -1 -1.00 -0.1 -1 0 0 Gardner MinshewG. Minshew PHI 2 1 -1 -1.00 -0.5 -1 0 0 Wan'Dale RobinsonW. Robinson NYG 6 2 -1 -0.50 -0.2 4 0 0 Ihmir Smith-MarsetteI. Smith-Marsette CHI 6 1 -1 -1.00 -0.2 -1 0 0 Nate SudfeldN. Sudfeld DET 1 2 -1 -0.50 -1.0 0 0 0 Ty MontgomeryT. Montgomery NE 1 2 -2 -1.00 -2.0 0 0 0 Matthias FarleyM. Farley LV 13 1 -3 -3.00 -0.2 -3 0 0 Jamie GillanJ. Gillan NYG 12 1 -3 -3.00 -0.2 0 0 0 Chad HenneC. Henne KC 2 3 -3 -1.00 -1.5 -1 0 0 Marquez Valdes-ScantlingM. Valdes-Scantling KC 12 1 -3 -3.00 -0.2 -3 0 0 Quez WatkinsQ. Watkins PHI 12 1 -3 -3.00 -0.2 -3 0 0 Demetric FeltonD. Felton CLE 6 1 -4 -4.00 -0.7 -4 0 0 David JohnsonD. Johnson NO 1 1 -4 -4.00 -4.0 -4 0 0 Chigoziem OkonkwoC. Okonkwo TEN 12 1 -4 -4.00 -0.3 -4 0 0 DeAndre CarterD. Carter LAC 12 1 -5 -5.00 -0.4 -5 0 0 Rondale MooreR. Moore ARI 8 6 -5 -0.83 -0.6 9 0 1 David NjokuD. Njoku CLE 9 1 -6 -6.00 -0.7 -6 0 0 Tom BradyT. Brady TB 12 20 -7 -0.35 -0.6 2 0 1 Jahan DotsonJ. Dotson WAS 8 2 -7 -3.50 -0.9 3 0 0 Breshad PerrimanB. Perriman TB 9 2 -7 -3.50 -0.8 0 0 0 Michael DicksonM. Dickson SEA 12 2 -18 -9.00 -1.5 -8 0 0 Ai là người vội vàng hàng đầu trong NFL?2022 Số liệu thống kê gấp rút của NFL - Người chơi |Nfl.com .. Thống kê 2022 Người chơi - Danh mục.Vội vàng.Đi qua.Vội vàng.2022. Thống kê người chơi tổng hợp.Người chơi.Rush yds.Att.TD.20+ 40+ lng.Cơn sốt đầu tiên.Rush 1st% Rush Fum.Josh Jacobs.1303. 242. 29.8.Nick Chubb.1119. 217. Derrick Henry.1078. 258. 17.8.Saquon Barkley.1055. 242. Dalvin Cook.927. 198. 20.2 .. Ai là người điều khiển hàng đầu trong NFL 2022?Derrick Henry, Tennessee Titans (+500)
Ai là người điều khiển hàng đầu trong NFL ngay bây giờ?Lãnh đạo Stat NFL 2022. 10 nhà lãnh đạo vội vã hàng đầu của mọi thời đại là ai?Top 10 nhà lãnh đạo vội vã mọi thời đại.. Emmitt Smith.Yards: 18.355 (1990-2004) .... Walter Payton.Yards: 16.726 (1975-1987) .... Barry Sanders.Yards: 15.269 (1989-1998) .... Curtis Martin.Yards: 14.101 (1995-2005) .... Ladainian Tomlinson.Yards: 13.684 (2001-2011) .... Jerome Bettis.Yards: 13.662 (1993-2005) .... Eric Dickerson..... Tony Dorsett .. |