Cơ chế ra quyết định của ASEAN theo quy định tại Điều 20 Hiến chương ASEAN

Việc thực hiện cơ chế ra quyết định theo nguyên tắc đồng thuận không chỉ đạt được sự tin tưởng, tôn trọng nhau giữa các quốc gia thành viên nhằm đạt được mục tiêu chung về an ninh khu vực mà còn là một đặc trưng cơ bản, mang bản sắc của ASEAN so với các tổ chức khác trên thế giới.

Khi hình thành ASEAN vào tháng 8/1967, các nhà sáng lập ban đầu của ASEAN đã đề xuất “phương cách ASEAN” để đảm bảo sự linh hoạt và khả năng thích nghi của Hiệp hội, cho phép tập hợp lực lượng của các nước khu vực Đông Nam Á có thể duy trì sức sống và phát triển về lâu dài.

“Phương cách ASEAN” là một tiến trình ra quyết định dựa trên đồng thuận, không giống với bất kỳ tổ chức, diễn đàn nào trên thế giới. “Phương cách ASEAN” có đặc điểm là ra quyết sách dựa trên tham vấn, thuyết phục và đối thoại là chính; mức độ ràng buộc thấp, tiệm tiến từng bước, không chỉ trích đích danh các thành viên khác, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi...

Như vậy, có thể nói, đồng thuận, đoàn kết là nội dung cốt lõi trong “phương cách ASEAN” và “phương cách ASEAN” lại là giá trị cốt lõi và tạo ra bản sắc riêng của ASEAN. Bên cạnh đó, để đảm bảo sự tôn trọng của các nước lớn ngoài khu vực, ASEAN đã xây dựng thành công hàng loạt cơ chế để can dự với các nước lớn theo hướng có lợi cho ASEAN và chuyển hóa thành công các giá trị cốt lõi, các nguyên tắc và chuẩn mực cơ bản trong quan hệ quốc tế, được các nước lớn và thế giới thừa nhận rộng rãi, thành các giá trị cốt lõi của Hiệp hội, như tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của các quốc gia, giải quyết hòa bình các tranh chấp trong khu vực...

Tuy là nguyên tắc rất quan trọng của ASEAN, nhưng phải tới năm 2007 khi Hiến chương ASEAN ra đời, nguyên tắc về cách thức ra quyết định dựa trên tham vấn và đồng thuận của ASEAN mới được nêu rõ trong văn bản chính thức.

Nguyên tắc đồng thuần được ghi nhận tại Điều 20 Hiến Chương ASEAN năm 2007, cụ thể: “1. Việc ra quyết định dựa trên tham vấn và đồng thuận là một nguyên tắc cơ bản của ASEAN. 2. Khi không có đồng thuận, Cấp cao ASEAN có thể xem xét việc đưa ra quyết định cụ thể. 3. Khoản 1 và 2 trong Điều này sẽ không ảnh hưởng tới các phương thức ra quyết định đã được nêu trong các văn kiện pháp lý liên quan khác của ASEAN. 4.Trong trường hợp có sự vi phạm nghiêm trọng hoặc không tuân thủ, vấn đề này sẽ được trình lên Cấp cao ASEAN để quyết định.”

Cơ chế ra quyết định của ASEAN theo quy định tại Điều 20 Hiến chương ASEAN

Các quan chức cấp cao ASEAN trong cuộc họp ngày 27/4/2017.

Nguyên tắc đồng thuận với ý nghĩa là một thủ tục thông qua quyết định, được coi là “hoạt động nhằm soạn ra một văn bản thông qua thương lượng và thông qua văn bản đó mà không cần biểu quyết.” Đồng thuận có nghĩa là không có sự phản đối nào dựa trên sự tự do, tự nguyện. Để đạt được đồng thuận, người ta phải tiến hành thảo luận, thương lượng, đồng thời sử dựng các kỹ thuật nhằm dung hòa giữa các bên.

Cơ chế ra quyết định của ASEAN theo quy định tại Điều 20 Hiến chương ASEAN

Tại Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) lần thứ 24 ngày 6/11/2020, Bộ trưởng các nước ASEAN đồng thuận đối với 12 văn kiện và tuyên bố.

Theo nguyên tắc này, một quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các nước thành viên ASEAN nhất trí thông qua hay có nghĩ là một quyết định chỉ được coi là của ASEAn khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Quyết định sẽ không được thông qua nếu có chỉ một quốc gia thành viên phản đối, vì vậy nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích của tất cả các quốc gia thành viên. Đây là nguyên tắc cơ bản trong việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như các lĩnh vực quan trọng của ASEAN. Đây là nguyên tắc bao trùm trong các cuộc hợp và hoạt động của ASEAN.

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển, nguyên tắc đồng thuận đã giúp ASEAN đảm bảo sự đoàn kết nội khối trước các vấn đề then chốt, có tính sống còn của Hiệp hội, đảm bảo sự bình đẳng cả về quyền lợi và trách nhiệm, đảm bảo tất cả các thành viên cảm thấy được tham vấn, và thoải mái trong các quá trình ra quyết sách và không bỏ rơi bất kỳ ai.

Mẫn Chi

Tiến trình ASEAN+1 là khuôn khổ hợp tác song phương của ASEAN với từng đối tác bên ngoài. Đây là khuôn khổ hợp tác ngoài khối được thành lập sớm nhất của ASEAN. Hiện nay, ASEAN duy trì quan hệ với 11 đối tác đối thoại, gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Nga, Mỹ, Canada, Liên minh châu Âu (EU) và Anh.

ASEAN+1 được xem là cơ chế hợp tác mang tính toàn diện nhất so với hợp tác trong các khuôn khổ hợp tác ngoài khối khác của ASEAN, đạt được những kết quả thiết thực nhất đối với ASEAN, cũng như đối với các đối tác. Các đối tác đều cam kết ủng hộ và hỗ trợ ASEAN đưa Cộng đồng phát triển, thu hẹp khoảng cách phát triển và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình khu vực, hỗ trợ đáng kể về tài chính ở mức độ khác nhau.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và lãnh đạo các nước ASEAN nhân dịp Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN-Hoa Kỳ (Ảnh: TTXVN)

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và lãnh đạo các nước ASEAN nhân dịp Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN-Hoa Kỳ (Ảnh: TTXVN)

Tiến trình ASEAN+3 là khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN với ba nước Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc; được hình thành năm 1997 và được chính thức hóa năm 1999 với việc thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á. ASEAN+3 ra đời xuất phát từ nhu cầu hợp tác nhằm đối phó tác động của khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997.

Hợp tác ASEAN+3 phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu, với sự hình thành hơn 50 cơ chế hợp tác ở các cấp khác nhau, kể cả Hội nghị cấp cao hằng năm được tổ chức trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN. Các lĩnh vực hợp tác được mở rộng bao gồm cả an ninh-chính trị, kinh tế, tài chính-tiền tệ, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, du lịch, công nghệ thông tin, y tế, lao động, văn hóa, an sinh xã hội và phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.

Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) là diễn đàn của các lãnh đạo để đối thoại về các vấn đề chiến lược nhằm hỗ trợ mục tiêu xây dựng cộng đồng ở khu vực Đông Á; là một tiến trình mở và thu nạp, trong đó ASEAN giữ vai trò trung tâm; bổ sung và hỗ trợ các diễn đàn khu vực khác hiện có, họp hằng năm do ASEAN chủ trì nhân dịp Hội nghị cấp cao ASEAN.

Lãnh đạo các nước nhất trí xác định 5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên gồm năng lượng, tài chính, giáo dục, thiên tai và bệnh dịch, trong số gần 20 lĩnh vực được đề cập trong thảo luận. Tại Hà Nội, ngày 30/10/2010, Hội nghị cấp cao EAS lần thứ 5 đã thông qua Tuyên bố Hà Nội kỷ niệm 5 năm thành lập tiến trình EAS, trong đó mở rộng hợp tác ra các vấn đề chính trị-an ninh; mời Nga và Mỹ chính thức tham gia EAS, bắt đầu từ EAS-6 cuối năm 2011 tại Indonesia.

Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7/1994, với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài khu vực. Đến nay, ARF đã trở thành một diễn đàn an ninh hằng năm và là cơ chế quan trọng trong hợp tác chính trị-an ninh ở châu Á-Thái Bình Dương, với 27 thành viên.

Đến nay, ARF tiếp tục khẳng định là diễn đàn hàng đầu về trao đổi hợp tác an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Với ASEAN ở vị trí trung tâm, ARF trở thành một động lực chính trong xây dựng lòng tin giữa các quốc gia trong khu vực thông qua các sáng kiến xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa đa dạng, phong phú.

Năm 2020, với Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN, ARF đã thông qua Kế hoạnh hành động Hà Nội II, đề ra các ưu tiên, định hướng hợp tác cho hoạt động của ARF giai đoạn 2020-2025. Ngoài ra, ARF cũng ghi nhận Tài liệu hướng dẫn về quy trình, thủ tục của ARF nhằm giúp chuẩn hóa, hệ thống hóa và nâng cao hiệu quả các hoạt động trong ARF.

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) được hình thành từ sáng kiến của Việt Nam trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2010. Hiện nay, ADMM+, với thành viên là 10 nước ASEAN và các đối tác, đã trở thành một cơ chế hợp tác đa phương về quốc phòng, góp phần thúc đẩy lòng tin, tăng cường hiểu biết về chính sách quốc phòng giữa các bên. Ban đầu được tổ chức 3 năm một lần, đến nay ADMM+ đã được tổ chức hằng năm.

5 lĩnh vực ưu tiên hợp tác ban đầu, gồm: an ninh biển, gìn giữ hòa bình, chống khủng bố, quân y, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. ADMM+ hiện mở rộng sang các lĩnh vực Hành động mìn nhân đạo và An ninh mạng, hợp tác ứng phó đại dịch Covid-19 và những hoạt động hợp tác hiệu quả trên thực tế, như: diễn tập Kết hợp nhóm chuyên gia ADMM+ về hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa và quân y, Diễn tập Thực binh kết hợp Nhóm chuyên gia ADMM+ về Hành động mìn nhân đạo và Gìn giữ hòa bình, Diễn tập thực binh nhóm chuyên gia ADMM+ về an ninh hàng hải, Diễn tập trực tuyến cơ chế xử lý tình huống về phòng, chống dịch Covid-19 giữa quân y các nước ASEAN.

Về các thể chế có liên kết với ASEAN, theo quy định tại Điều 16 của Hiến chương ASEAN, ngoài các cơ quan chính thức, ASEAN công nhận và trao quy chế liên kết cho một số thực thể, phù hợp với tiêu chí và thủ tục quy định tại Quy tắc về thủ tục và tiêu chí tham gia đối với các tổ chức liên kết với ASEAN (ROP).

Danh mục các thực thể có liên kết với ASEAN được nêu tại Phụ lục II Hiến chương ASEAN. Tổng Thư ký ASEAN có thẩm quyền cập nhật trên cơ sở khuyến nghị của Ủy ban các Đại diện thường trực tại ASEAN (CPR).

Một số thực thể có liên kết với ASEAN gồm: Đại hội đồng liên Nghị viện ASEAN (AIPA), Hội đồng Tư vấn kinh doanh ASEAN (ASEAN-BAC), Mạng lưới các Viện nghiên cứu ASEAN-ISIS...

Nếu được công nhận “có quan hệ liên kết với ASEAN”, các tổ chức sẽ được hưởng một số quyền lợi như: sử dụng tên, cờ, biểu trưng ASEAN, sử dụng cơ sở của Ban Thư ký ASEAN cho hoạt động chính thức, khuyến nghị hoặc đề xuất dự án, sáng kiến... và phải tuân thủ một số nghĩa vụ theo các mục tiêu, nguyên tắc, chính sách, quyết định của ASEAN, luật pháp của các nước thành viên. Các tổ chức này sẽ bị rút quy chế liên kết nếu không tuân thủ hoặc vi phạm các quy định.