Cỏ lúa ngang nhau nghĩa là gì

1. Về sự tồn tại của trường ngữ nghĩa - lớp từ ngữ chỉ cây lúa và các sản phẩm từ lúa


Khảo sát cuốn Tục ngữ Việt Nam chọn lọccủa Vương Trung Hiếu, Nxb. Văn nghệ, 1996 [618 trang] với 96 chủ đề, chúng tôi nhận thấy dấu ấn văn hoá lúa nước của người Việt thể hiện qua tục ngữ khá rõ. Trong tổng số 2400 phát ngôn tục ngữ thì có đến 446 phát ngôn chứa các từ ngữ xuất hiện thành trường đề cập đến cây lúa và sản phẩm cây lúa cũng như kinh nghiệm trồng lúa. Trong cuốn Kho tàng tục ngữ Việt Nam , do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, trong số 9000 phát ngôn có 609 phát ngôn viết về cây lúa. Con số này nói lên người Việt trồng lúa và canh tác lúa nước từ lâu đời, để lại dấu ấn qua lớp từ ngữ, chúng phản ánh nền văn hoá lúa nước của người Việt, vì vậy bài viết của chúng tôi đi sâu tìm hiểu trường ngữ nghĩa do lớp từ ngữ phản ánh đặc trưng văn hoá lúa nước của người Việt.

2. Khái niệm trường nghĩa


Trường ngữ nghĩa là một khái niệm trong từ vựng học. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng. Mỗi tiểu hệ thống là một trường ngữ nghĩa. Đó là một tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa[1, tr.171]. Các từ trong cùng một trường luôn có quan hệ ý nghĩa với nhau và quan hệ này vừa là cơ sở để xác lập trường vừa có tác dụng liên kết các đơn vị từ vựng trong một trường nghĩa. Các nhà từ vựng thường nói đến bốn nhóm trường ngữ nghĩa: Trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm [xét trên trục dọc], trường nghĩa tuyến tính [xét trên trục ngang - trục ngữ đoạn] và trường nghĩa liên tưởng [xét trong việc sử dụng từ ngữ]. Trong tục ngữ, lớp từ tạo thành trường chủ yếu là trường biểu vật và trường liên tưởng.    

3. Ngữ nghĩa của các phát ngôn tục ngữ phản ánh văn hoá lúa nước


3.1. Các từ gọi tên cây lúa và sản phẩm từ cây lúa


Người Việt canh tác lúa nước với mục đích lấy hạt lúa làm lương thực chính. Cây lúa đến thời kì chín rộ, có màu vàng mơ, người ta thu hoạch về lấy hạt, được gọi là hạt lúa. Nhưng khi đã mang về nhà [có thể phơi khô để cất giữ] còn được gọi là thóc. Nếu hạt lúa còn ở trên cây chưa thu hoạch thì không gọi là hạt thóc mà gọi là hạt lúa. Trong tư liệu của chúng tôi có bốn từ được dùng với tần số cao là lúavới: " Thóchoa dâu, trầu lá mặt", từ cơmlà 66 lần "Lớn bát cơm, to bó lúa", từ gạo17 lần "Mẹ đần lại đẻ con đần, gạochiêm đem giã mấy lần vẫn chiêm"; " Gạochợ, nước sông, củi đồng, trầu miếng". Trong sử dụng từ lúacó biến thể ngữ âm là ló"Khôn như tiên không tiền cũng dại, dại như chó có lócũng khôn". Trong dân gian, có nhiều loại lúa khác nhau, nhưng chủ yếu có hai loại lúa được trồng vào hai khoảng thời gian khác nhau và thu hoạch cũng khác nhau đó là lúa chiêm và lúa mùa. Về từng loại lúa dùng để ăn vào những dịp khác nhau chủ yếu có hai loại: lúa tẻ và lúa nếp. Lúa tẻ nấu thành cơm dùng trong bữa ăn hằng ngày, còn lúa nếp nấu thành xôi dùng vào dịp lễ, tết. Lúa nếp ngon hơn lúa tẻ: "Đắt lúatẻ, rẻ lúanếp"; Gần chùa chẳng được ăn xôi"; " Cơm tẻ no xôi vòchẳng thiết"; "Có thịt đòi xôi".

Ngoài những từ trên, ta còn gặp các từ khác đều là sản phẩm của hạt lúa được tách từ hạt lúa ra: tấm, cám, mẳn, trấu: "Ra tay gạo xay ra cám"; "Trai đi giày đến đám, trai về nhà bốc cám rang"; "No cơm tấm, ấm ổ rơm"; " Trấutrong nhà, thả gà đi đâu". Hoặc ta bắt gặp những tổ hợp từ ghép: thóc lúa, thóc gạo, gạo thóc, lúa gạo, lúa má, cơm cháo, tấm cám: "Xay lúa Đồng Nai, thóc gạovề ngài, tấm cámvề tôi"; " Thóc lúavề nhà, lợn gà ra chợ".

3.2. Các từ gọi tên thực phẩm chế biến từ hạt lúa


Trong tục ngữ, chúng tôi bắt gặp nhiều nhất là cơm. Cơm là lương thực chính trong bữa ăn hằng ngày của người Việt. Tiêu chuẩn để đánh giá sự no đủ là: "No cơmấm áo"; "No cơmấm cật". Cơm có nhiều loại khác nhau với những tên gọi theo những nguồn gốc khác nhau. Ta có cơm cày, cơm cấytrong " Cơm cày cơm cấyai thấy thì ăn" để chỉ cơm ăn vào dịp làm mùa; cơm homtrong "Ăn cơm hom, nằm giường hòm" để chỉ loại cơm ngon đắt tiền, cơmchăm, cơm mùatrong "Cơm mùa treo chái chùa cũng chín"; cơm chăm[mắm chườm], cơm muốitrong " Cơm muốihơn chuối chết" để chỉ cơm chấm muối; cơm tẻtrong " Cơm tẻno, xôi vò chẳng thiết"; " Cơm tẻmẹ ruột" để chỉ loại cơm nấu từ gạo khác với loại xôi nấu từ nếp; cơm hàngtrong " Cơm hàngcháo chợ, ai lỡ thì ăn" để chỉ cơm nấu với mục đích bán cho người qua đường. Bên cạnh đó còn có những câu tục ngữ phản ánh cách thức nấu cơm thành các kiểu cơm: " Cơm ráo, cháo dừ"; " Cơm sốnglà cơm thảo, cơm nhãolà cơm hà tiện", " Cơm sốngtại nồi, cơm sôi tại lửa"; " Cơm sốngvì nồi, không sống vì vung", hoặc phản ánh cách thức ăn cơm khác cháo: " Cơmvà, cháohúp"; "Học chọc bát cơm, học đơm bát cháo"; " Cơmquanh rá, mạ quanh bờ"; hoặc phản ánh cách gọi tên đơn vị đo lường lượng cơm hằng ngày: "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưnghơi đâu mà giận người dưng thêm gầy"; "Cơm ba bátáo ba manh"; "Cơm ba bát, thuốc ba thang". Ca dao cũng sử dụng từ chỉ đơn vị đo lường lượng cơm trong bát, như: "Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng, uống nước cầm chừng để dạ thương ai". Cơm còn được dùng để đánh giá tính cách con người: Cắn hột cơmkhông vỡ [chỉ người có tính keo kiệt so đo]: "Cắn cơmkhông vỡ, cắn tiền vỡ tan".

Ngoài từ cơm, ta còn bắt gặp từ cháo. Cháo là món ăn nấu từ gạo nhưng loãng, có nhiều nước, thời gian nấu lâu hơn. Đặc biệt, vào những ngày đói kém, thiếu gạo, hay yếu mệt, người Việt thường nấu gạo thành cháo để ăn: " Cháonóng húp quanh, công nợ trả dần"; "Ăn cháođá bát"; "Cơm hàng cháochợ ai lỡ thì ăn". Cùng với cháo, trong các thứ quà bánh được chế biến từ gạo, phải kể đến bánh đúc. Bánh đúc là một món ăn ngon, bổ dưỡng của người Việt trước đây, được mọi người ưa thích. Người ta xay nhỏ gạo thành bột, ngâm vào nước, cho thêm ít nước vôi [hoặc hàn the], quấy đều và đun lên, sau đó đổ theo khuôn, đặt ở sàng: " Bánh đúcbày sàng". Khi ăn, bánh đúc được chấm với mắm tôm ngon đến mức: " Bánh đúcbẻ ba, mắm tôm quệt ngược cả nhà tan hoang"; "Muốn ăn no bánh đúc; ăn bánh đúc đục mặt". Từ gạo tẻ hoặc nếp có thể xay thành bột, chế biến thành hồ: "Có bột mới gột nên hồ"; làm hàng xáo, bánh dày: "Khôn khéo bánh dầy, vụng dại chày cối"; "Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu" [với nghĩa là vật dùng để đo lường đối với từng loại]; "Hàng xay hàng xáoláo nháo ghẹo chồng con bồ còn thóc hết". Nếp [cũng là một loại gạo nhưng quý hơn] để gói bánh chưng, nấu xôi cúng vào dịp lễ tết, vì vậy câu: " Ăn chực đòi bánh chưng" hoặc " Ăn mày đòi xôi gấc" để nói đến người đi ăn chực không có quyền đòi hỏi vì phụ thuộc vào sự hảo tâm của người cho.

Sau đây là một số câu tục ngữ phản ánh món ăn nấu từ gạo nếp: " Nếplộn lòn cha con đánh chén"; "Có xôinói xôidẻo, có thịt nói thịt bùi"; "Gần chùa chẳng được miếng xôi"; "Muốn ăn xôiông ơi xắn áo"; "Ăn xôichùa ngọng miệng"; "Cơm tẻ ăn no, xôi vòchả thiết".

Các từ gọi tên các công cụ, hoạt động biến từ lúa, thóc thành gạo, như chày, cối, cối xay, dần, sàng: "Khôn khéo vá may, vụng về chày cối"; "Nhác đâm thì đổi chày, nhác xay thì đổi cối"; "Nói trặc họng cối xay"; "Hát khi xaylúa, múa khi tối trời"; " Xaylúa thì đừng ẵm em"; " Xaythóc có chàng, việc làng có mõ". Thậm chí, cối xay thóc được khái quát thành nhận thức: Trẻ con // [thì] học, cối // [thì] xay thóc. Nia, sàng, thúnglà vật dụng để sàng, để đựng và sảy gạo: "Bánh đúc bày sàng"; "Đá thúngđụng nia". Ca dao cũng có những câu dùng các từ nia, sàngđể chỉ dụng cụ sàng sảy gạo: "Ra đường ông nọ bà kia, về nhà chẳng khỏi cái nia cái sàng".

3.3. Các từ gọi tên các thời kì phát triển của cây lúa


Cây lúa có quá trình phát triển khoảng bốn tháng. Trong khoảng thời gian này, nó được gọi bằng những tên khác nhau: Giống, mạ [má], lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín. Khi gặt xong cắt phần trên thì gọi là rạ hay gốc rạ, còn phần trên của cây lúa phơi khô thì gọi là rơm. Ta bắt gặp tên gọi này qua các câu tục ngữ: Giống: "Không nhặt mà rặt giống"; "Nhất nước nhì phân, tam cần tư giống,Muốn ăn lúa phải tìm giống"; Mạ: " Mạchiêm đào sâu chôn chặt mạmùa chôn chặt mà đi"; "Khoai ưa lạ, mạưa quen"; "Trồng khoai đất lạ, gieo mạđất quen"; " Mạ giàruộng ngấu"; " Mạmùa sướng cao, mạchiêm ao thấp"; Lúa vào thời kì phát triển: " Lúa chiêm lấp lóđầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên"; Lúa trổ bông: " Lúa trổ mâm xôi, dẫy nồi chồng vợ"; Lúa chín: " Lúa chínhoa ngâu đi đâu chẳng gặt"; Rơm, rạ: "Lửa gầm rơmlâu ngày cũng bén"; "Ôm rơmdặm bụng"; "Lúa giỗ ngã mạ, vàng rạmạ xuống".

3.4. Các từ gọi tên thời tiết, thời vụ gắn với việc trồng lúa


a. Thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc trồng lúa. Chính vì vậy, tục ngữ đã phản ánh kinh nghiệm nhận biết về thời tiết có liên quan đến thời kì phát triển, trồng lúa. Đó là kinh nghiệm trông sao và trăng: " Sao ruađứng trốc, lúa lốc được ăn"; " Tua ruamột tháng mười ngày, cấy trốc luống cày cũng được lúa xôi"; " Tua ruabằng mặt cất bát cơm chăm, tua ruađi nằm, cơm chăm đã cạn" [Tua rua bằngmặtcó nghĩa là trông thấy]. Hay kinh nghiệm trông trăng: "Muốn ăn lúa tháng năm trông trăng rằmtháng Tám"; "Muốn ăn lúa tháng mười trông trăngmồng tám tháng tư"; " Trăng mờtốt lúa nỏ, trăng tỏtốt lúa sâu"; " Trăng mười bốnđược tằm, tỏ trăng hôm rằmthì được lúa gieo".

Kinh nghiệm về thời tiết mưa nắng, sấm, chớp, gió để biết trước mất mùa hay được mùa: a1] Về nắng, mưa: " Nắngtốt dưa mưatốt lúa"; "Mồng tám tháng tám không mưabỏ cả cày bừa mà nhổ lúađi"; "Mồng chín tháng chín không mưa, mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng, mồng chín tháng chín có mưa, mẹ con bán cả cày bừa mà ăn"; "Tháng Tám mưa trai tháng hai mưa thóc"; a2] Về sấm: "Tháng mười có sấmcấy trên nấm cũng có ăn"; "Lúa chiêm đứng nép đầu bờ, hễ nghe tiếng sấmphất cờ mà lên"; a3] Về gió: "Trời nồmtốt mạ, trời giá tốt rau"; "Gió đônglà chồng lúa chiêm, gió bấclà duyên lúa mùa".

b. Người Việt trước đây trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Về sau, do tiếp xúc với người Chiêm [hay Chăm] nên có thêm lúa chiêm [hay lúa chăm]. Như vậy, hằng năm người Việt canh tác lúa vào hai mùa chính: lúa chiêm và lúa mùa. Tục ngữ đã ghi lại cách gọi tên lúa theo hai vụ này: " Chiêmxấp xới, mùađợi nhau"; " Chiêmbơ bãi, mùaphải thời", nghĩa là mạ chiêm thì có thể cấy chênh nhau về ngày nhưng mạ mùa thì phải đúng thời gian, vào một khoảng nhất định, đó là lúc có sao tua rua. Cũng chính vì vậy, sao tua rua là một trong những ngôi sao làm bạn với nhà nông: " Tua ruađi bắc mạ mùa".

3.5. Các từ gọi tên kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa nước


Liên quan đến kinh nghiệm trồng lúa và canh tác lúa phải nói đến trường ngữ nghĩa gồm những từ chỉ công cụ sản xuất lúa nước, như cái cày, cái bừa, cái liềm..., đặc biệt con vật gắn bó mật thiết với con người là con trâu: " Con trâulà đầu cơ nghiệp; Ruộng sâu trâunái không bằng con gái đầu lòng"; " Trâulên mạ xuống". Tuy nhiên do giới hạn về phạm vi khảo sát, chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến trường ngữ nghĩa nói về loài vật gắn với việc canh tác lúa nước trong đó có con trâu.

a. Các từ ngữ gọi tên thứ tự của việc canh tác lúa nước.

Trong các từ được sắp xếp theo trình tự về tính cần thiết người ta quan tâm trước hết là nước. Nước là nguồn gốc của sự sống và nó cũng là nhân tố đầu tiên nói đến khi trồng lúa: "Nhất nướcnhì phân, tam cần,tứ giống"; "Nhất ruộng, nhì mạ,thứ ba canh điền"; "Nhất canh trì,nhì canh viên, ba canh điền"; " Cày cấy, bón phânphải kể anh phạt bờ cuốc gốc".

b. Cách thức làm đất là phải chú trọng đất ải. Trong câu: " Đất không ải, rải thêm phân" là nói đến kinh nghiệm làm đất, nhưng câu: " Đất chổng lên, nền vạc phẳng, ải tảng băng, cấy sáng giăng, không phải thằng nào đấm" lại là chê cách làm đất, cách canh tác không đúng. Đất phải làm thật ải: " ảibởchồng con ở, ải sượngchồng con đi"; "Một cục đất ảibằng một bãi phân"; "Cày ảihơn rải phân". Cùng với việc làm ải đất còn phải chú trọng làm cho ngấu đất: " ải thâmkhông bằng dầm ngấu"; "Thứ nhất phân ngấu, thứ nhì ngấu tươi", chú trọng cách thức làm đất để gieo mạ: "Ướp dưa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn trưa" .

c. Cách thức làm cỏ: Nói đến làm ruộng là phải diệt sạch cỏ: "Ăn cơm làm cỏchẳng bỏ đi đâu"; "Một búi cỏ, một giỏ thóc"; "Một lượt cỏ, thêm một giỏ thóc".

d. Làm ruộng là phải đi cày, đi bừa: " Càycạn khoẻ trâu, càysâu tốt lúa"; " Càygãi bừachùi, lúa thui thóc lép/ Càysâu bừakép, lúa đẹp bông sây"; " Càysâu làm đầu lúa tốt"; "Thứ nhất cày nỏthứ nhì bỏ phân". Sau đây là kiểu cày chưa đúng cách: " Cày sưabừa mệt"; "Cấy sáng cấy tối, gặp phải chân bừa dốitoi ăn". Cày bừa theo vụ mùa cũng khác nhau: "Chiêm đi đơn, mùa đi kép" .

Làm ruộng là phải đi cấy. Việc đi cấy như một nhận thức tất yếu: "Chẳng cấylấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu có chữ. Đi cấy được phản ánh bằng những động tác khác nhau: "Cấy bằng mặt, gặt bằng đầu". Tục ngữ còn phản ánh cách thức cấy lúa: "Cấy thưathừa thóc, cấy dàythì cóc được ăn"; "Cấy cạnđẻ nhiều là điều nhà nông"; "Gié thừa cấy nỏ, chiêm thừa bỏ đi"; "Lúa mùa thì cấy cho sâu, lúa chiêm thì gửi cành dâucũng vừa"; "Vụ mùa cấy lúa cao, vụ chiêm cấy lúa trũng".

Làm ruộng phải chú trọng đến việc tưới nước, cách thức tưới nước cho ruộng: "Đất điền đất thổ, ruộng cao tưới trước, ruộng thấp tưới sau"; " Không nướckhông phân chuyên cần vô ích"; "Làm ruộng thì phải đắp đìa, vừa dễ giữ nước, khi về dễ đi"; "Làm ruộng thì phải đắp bờ, may cờ thì phải viền đường mép". Công cụ để tưới nước ở những ruộng cao thấp khác nhau: "Cao bờ thì tát gàu dai, gàu sòngchỉ tát được nơi thấp bờ".

Làm ruộng là nói đến công cụ gặt lúa khi vụ thu hoạch đến. Khi lúa chín, người nông dân thường dùng hái, liềm [còn gọi là A, vì nó có hình giống như chữ A]: "Lúa phơi màu, trông nhau liềm hái"; "Cắt rạ thì dùng bằng A, quét nhà thì dùng bằng chổi"; "Đánh một lưỡi Abằng ba công việc lưỡihái".

3.6. Các từ gọi tên giá trị hàng hoá lấy thóc lúa làm đơn vị so sánh


Sự độc canh cây lúa [và lương thực nói chung] tạo ra tâm lí lấy hạt lúa [hoặc lương thực] làm hệ quy chiếu, hệ chuẩn mực trong nhận thức, đánh giá mọi quan hệ khác. Vì vậy, thóc gạo được coi là thước đo nhiều giá trị khác nhau trong xã hội. Ta gặp một số lượng các câu tục ngữ phản ánh giá trị này.

Trước hết thóc gạo là thước đo mối quan hệ thân sơ giữa người với người trong cộng đồng: "Ông tiền ông thóc, ông cóc gì ai"; "Bà tiền bà thóc, bà cóc gì ai"; "Không tiền không gạomạnh bạo gì thầy"; "Không tiền không gạomạnh bạo xó bếp"; "Ngồi đống thóc, móc đống tiền".

Thứ hai, nó là thước đo sự giàu nghèo: "Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc"; "Nhà giàu mua vải tháng ba, bán gạo tháng tám mới ra nhà giàu"; "Khen nhà giàu lắm thóc"; "Chứa tiền chứa thócthì giàu"; "Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc"; "Con học, thócvay".

Thứ ba, thóc gạo là thước đo tính giá trị trong lời nói: "Lời nói quan tiền thúng thóc".

Cuối cùng, thóc gạo còn là thước đo sự khôn dại: "Khôn như tiền không tiền cũng dại, dại như chó có lócũng khôn"; "Mạnh vì gạobạo vì tiền khôn ngoan dù mốc".

3.7. Các từ gọi tên đơn vị đong đếm đo lường thóc hoặc chứa đựng, lúa, gạo, cơm


Trong tục ngữ, ta bắt gặp những danh từ chỉ đơn vị gọi tên vật dùng để đong đếm thóc gạo: "Ba thưngcũng vào một đấu"; " Đấuhàng xáo, gáo hàng dầu"; "Được vài đấuthóc khấn trời làm mưa". Từ chỉ vật chứa đựng thóc, lúa, gạo, cơm như bồ, cót, bát, giỏ, thúng: "Tháng giêng ăn nghiêng bồthóc"; "Hàng xay hàng xáo láo nháo ghẹo chồng con bồcòn thóc hết"; "Thóc cótthóc bồ"; "Thóc gạo đầy bồcũng nhờ anh phạt bờ cuốc góc"; "Dòm giỏbỏ thóc"; "Một lượt cỏ, một giỏthóc"; "Cày sâu cuốc bẫm, thóc đầy lẫmkhoai đầy bồ"; "Nắm cỏ giỏthóc"; "Lời nói thúngthóc, lời nói dùi đục cẳng tay"; " Cănló không bằng xó nhà". Thậm chí, tục ngữ còn sử dụng cả những danh từ chỉ vật đựng thóc, lúa để gọi các từ chỉ người với nghĩa chỉ tập hợp: "Một giỏsinh đồ, một bồông cống, một đốngông nghè, một bètiến sĩ, một bịtrạng nguyên, một thuyền bảng nhãn".

Bên cạnh các vật đựng thóc lúa gạo, người Việt dùng vật đựng trong bữa ăn cơm bằng bát, đọi. Khác các nước sống bằng nghề săn bắt, thực phẩm chủ yếu là thịt, họ dùng công cụ trong bữa ăn là dao, đĩa, thìa, nĩa. Người Việt, trái lại thường dùng đũa, bát, chén, đọi, môi, thìa...,như: "Bớt bátcơm mặt còn hơn nợ nần"; "Có bátmát mặt; Lớn bátcơm to bó lúa"; "Một nút lạt một bátcơm"; "Cơm ba bátáo ba manh"; "Ngồi mát ăn bátđầy, lầy cầy không đầy bát"; "Sợ bátcơm đầy không sợ thầy to tiếng"; "Ăn cháo đá bát"; "Một quả cà bằng ba bát/ chénthuốc"; "Một chénthuốc ta bằng ba chénthuốc tàu"; "Lời nói đọimáu"; "Ba voi không được đọixáo".

4. Kết luận


Khảo sát các phát ngôn tục ngữ Việt, chúng ta bắt gặp nhiều lớp từ xuất hiện thành trường ngữ nghĩa, trong đó có cả trường ngữ nghĩa về cây lúa, các sản phẩm từ lúa, các thời kì sinh trưởng cây lúa, sự canh tác lúa nước của người Việt, thang giá trị lấy lúa gọi tên đơn vị đo để so sánh... Đây là những từ ra đời từ sớm, đa số đơn tiết, phản ánh đặc thù văn hoá lúa nước của người Việt khá rõ mà qua nhiều biến đổi của thời gian, chúng được lưu giữ như những nhân chứng in đậm dấu ấn lịch sử.

Tài liệu tham khảo

1. Đỗ Hữu Châu [1999], Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt,Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

2. Nguyễn Thái Hoà [1982], Miêu tả và phân loại các khuôn hình tục ngữ Việt Nam , Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

3. Nguyễn Thái Hoà [1997], Tục ngữ Việt Nam - Cấu trúc và thi pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Thị H­ương [1999], "Đặc trư­ng ngữ nghĩa của nhóm tục ngữ chứa các từ chỉ quan hệ thân tộc", Tạp chí Ngôn ngữsố 6, tr.27-33.

5. Vương Trung Hiếu [1996], Tục ngữ Việt Nam chọn lọc, Nxb. Văn nghệ.

6. Nguyễn Xuân Kính [2002], Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1, 2, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

Nguồn: hoidantochoc.org.vn [12/12/06]

Video liên quan

Chủ Đề