Khó khăn trong xử lý vi phạm hành chính

Thời gian qua, việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường xảy ra ngày càng nhiều trên phạm vi cả nước với tính chất, mức độ tinh vi và hậu quả nghiêm trọng hơn; các tổ chức, cá nhân vi phạm có nhiều thủ đoạn đối phó, chống đối. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ngày càng đòi hỏi tính kịp thời, chính xác và chất lượng ngày càng cao trong khi đó biên chế công chức làm công tác thanh tra còn thiếu. Khối lượng công việc chuyên môn rất lớn, phạm vi rộng, áp lực nhiều nhưng biên chế không tăng dẫn đến quá tải về công việc. 

Khó khăn, vướng mắc xuất phát từ các quy định của pháp luật

Về các quy định của Luật Thanh tra năm 2010: Luật quy định giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho một số đơn vị, nhưng không thành lập tổ chức thanh tra trong các đơn vị này làm giảm chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành. Ngoài ra cũng làm phát sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến chế độ, biên chế; hoạt động thanh tra chuyên ngành còn bị ràng buộc bởi nhiều thủ tục hành chính theo quy định của Luật Thanh tra như: phải có quyết định thanh tra, thông báo trước lịch làm việc cho đối tượng thanh tra, làm việc trong giờ hành chính làm hạn chế việc phát hiện các vi phạm hành chính.

Về các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính: Khoản 3 Điều 60 Luật xử lý vi phạm hành chính, thời hạn tạm giữ tang vật để xác định giá trị không quá 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định tạm giữ, trong trường hợp cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 24 giờ, như vậy thời điểm giữ tang vật vi phạm hành chính tối đa không quá 48 giờ, vì vậy khi áp dụng quy định này trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn vì thời gian tạm giữ ngắn (48 giờ), trong khi đó phải thành lập Hội đồng định giá để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính, Hội đồng thẩm định giá liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị và thực hiện nhiều thủ tục hành chính nên khó khăn cho cơ quan thẩm quyền xử phạt. Bên cạnh đó, các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường quy định mức xử phạt vi phạm hành chính bằng tiền là khá cao nên việc thi hành quyết định, nộp tiền phạt cũng gặp nhiều khó khăn, kéo dài thời gian thực hiện.

Khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành 

Thời gian qua, việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường xảy ra ngày càng nhiều trên phạm vi cả nước với tính chất, mức độ tinh vi và hậu quả nghiêm trọng hơn; các tổ chức, cá nhân vi phạm có nhiều thủ đoạn đối phó, chống đối. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm ngày càng đòi hỏi tính kịp thời, chính xác và chất lượng ngày càng cao trong khi đó biên chế công chức làm công tác thanh tra còn thiếu. Khối lượng công việc chuyên môn rất lớn, phạm vi rộng, áp lực nhiều nhưng biên chế không tăng dẫn đến quá tải về công việc.

Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về tài nguyên và môi trường hiện nay còn thiếu các tài liệu hướng dẫn, quy trình hướng dẫn kỹ thuật thanh tra chuyên ngành cho các đối tượng, ngành nghề khác nhau; thiếu dữ liệu môi trường nền và chưa có cơ sở dữ liệu về đối tượng thanh tra phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Do đó, trên thực tế công tác thanh tra, kiểm tra còn gặp nhiều khó khăn, làm giảm hiệu quả của công tác thi hành xử lý vi phạm hành chính.

Trong quá trình triển khai thực hiện các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, còn có một số khó khăn, vướng mắc sau: Các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật sau khi bị xử phạt vi phạm hành chính đã cố tình không chấp hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong khi đó Luật xử lý vi phạm hành chính đã có các biện pháp cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa đủ sức răn đe.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật số 67/2020/QH14) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 13/11/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022.

Sau gần 6 tháng thi hành có thể nói rằng, cùng với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và hệ thống các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đã bảo đảm thể chế kịp thời, đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Tuy nhiên, thực tiễn thi hành luật trên thực tiễn cũng phát sinh một số khó khăn bước đầu, cụ thể như sau:

Trong thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Thứ nhất, tại khoản 29 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính) quy định: “Biên bản vi phạm hành chính lập xong phải được giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm 01 bản; trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền của người lập biên bản thì biên bản và các tài liệu khác phải được chuyển cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa”.

Thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính và các tài liệu khác cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm như quy định trên là quá ngắn, khó khăn trong tổ chức thực hiện, đặc biệt là đối với những địa phương điều kiện địa hình đi lại khó khăn; hành vi vi phạm phát hiện vào các ngày nghỉ cuối tuần, ngày nghỉ lễ và ở những khu vực xa trung tâm, đi lại khó khăn, một số nơi chưa đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thật, thông tin.

Thứ hai, tại khoản 65 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 126 Luật xử lý vi phạm hành chính) quy định: “Trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện thì người ra quyết định tạm giữ phải thông báo 02 lần trên phương tiện thông tin đại chúng của trung ương hoặc địa phương nơi tạm giữ tang vật, phương tiện. Lần thông báo thứ nhất phải được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện. Lần thông báo thứ hai được thực hiện trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo thứ nhất. Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”.

Quy định trên rất khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện. Cụ thể, tang vật các vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp là gỗ ở trên rừng thường ở những nơi có địa hình đi lại khó khăn, kinh phí vận chuyển tang vật vi phạm phải chi trả nhiều. Bên cạnh đó các đơn vị kiểm lâm trên địa bàn không có nhà kho để bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Vì vậy thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện sau 01 năm người có thẩm quyền mới tịch thu sẽ gây khó khăn trong quá trình tạm giữ, bảo quản, làm giảm về chất lượng, giá trị tang vật, phương tiện từ đó dẫn đến thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước.

Trong thi hành Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính

Khi cá nhân có hành vi vi phạm hành chính, sẽ bị xử phạt theo Mẫu số Quyết định số 02 (MQĐ02) Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (sử dụng cho cả trường hợp một hoặc nhiều cá nhân/tổ chức thực hiện một hoặc nhiều hành vi vi phạm hành chính) của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

Tuy nhiên, đối với trường hợp cá nhân bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính. Ngay khi áp dụng mẫu Quyết định số 02 nói trên, biện pháp khắc phục hậu quả này sẽ phải ghi rõ cụ thể tại quyết định này. Theo mẫu Quyết định số 16 (MQĐ16): Quyết định buộc tiêu hủy tang vật, phương tiện hành chính, thì khi cá nhân thuộc trường hợp bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Điều 33 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì người có thẩm quyền xử phạt ban hành Quyết định buộc tiêu hủy tang vật, phương tiện vi phạm hành chính theo mẫu Quyết định số 16 (MQĐ16), mà căn cứ ban hành lại là Biên bản vi phạm hành chính, biên bản xác minh.

Với những khó khăn này cần phải có hướng dẫn cụ thể để đảm bảo việc tổ chức thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính toàn diện/.