Một người bị coi là có tội khi nào năm 2024

Tôi nghe người ta nói nhiều về nguyên tắc suy đoán vô tội, xin cho hỏi, cụ thể luật quy định như thế nào về nguyên tắc này?

Thời gian gần đây, tôi nghe nói nhiều về nguyên tắc suy đoán vô tội, vậy cụ thể luật quy định như thế nào về nguyên tắc này. Mong luật sư giải thích giúp?

Bạn đọc Trần Hoàng (TP.HCM).

Luật sư Nguyễn Minh Tâm, Đoàn luật sư TP.HCM, giải thích về nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng trong pháp luật Việt Nam hiện hành.

Xét về nguồn gốc, tinh thần của nguyên tắc này xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và được các triều đại La Mã áp dụng trong quá trình xét xử hình sự, xác định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Bị cáo luôn được coi là vô tội.

Ở nước ta, tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được hiến định tại khoản 1, điều 31 Hiến pháp 2013: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật" .

Một người bị coi là có tội khi nào năm 2024

Luật sư Nguyễn Minh Tâm

Và lần đầu tiên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã xác định "suy đoán vô tội" thành một nguyên tắc trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự tại điều 13:

"Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội" (điều 13).

Như vậy, về bản chất, nguyên tắc suy đoán vô tội xác lập nghĩa vụ chứng minh việc phạm tội là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, các điều tra viên, kiểm sát viên… Bị can, bị cáo có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội.

Vì họ không có nghĩa vụ chứng minh đó nên họ có quyền im lặng khi bị bắt, bị hỏi cung khi chưa có mặt của luật sư bào chữa cho họ.

Tinh thần cốt lõi của nguyên tắc này là: Khi tạm giữ, khởi tố điều tra, truy tố và xét xử một người bị tình nghi phạm tội, hoặc họ đã trở thành bị can, bị cáo trong vụ án hình sự thì trong tâm thức của những người tiến hành tố tụng phải coi họ là người không có tội. Người tiến hành tố tụng thực sự mong muốn họ là người không có tội, nhưng vì những chứng cứ thu thập được là những bằng chứng hoàn toàn chống lại họ, không có bất kỳ một chứng cứ nào cho thấy họ vô tội, nên buộc lòng phải kết luận và quyết định truy tố, xét xử họ về tội đã phạm.

Việc kết tội là hệ quả của các bằng chứng rõ ràng về hành vi phạm tội của họ mà không thể nào khác được.

Mời bạn đọc gửi câu hỏi để được luật sư tư vấn

Một người bị coi là có tội khi nào năm 2024

Đăng ký Tuổi Trẻ Sao TẠI ĐÂY

Với đội ngũ các luật sư và chuyên gia pháp lý dày dạn kinh nghiệm trên tất cả các lĩnh vực như hôn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại, mua bán đất đai, sở hữu trí tuệ, lao động, hộ tịch, thừa kế..., chuyên mục Tư vấn pháp luật trên Tuổi Trẻ Sao sẽ giải đáp thắc mắc của bạn một cách nhiệt tình, nhanh chóng, chính xác, hiệu quả.

Bạn đọc vui lòng gửi câu hỏi (gõ bằng tiếng Việt có dấu, font chữ UNICODE) về Tuổi Trẻ Sao qua địa chỉ [email protected].

Dạ, cho em hỏi theo quy định pháp luật về hình sự thì nếu Tòa án sơ thẩm ra bản án kết tội thì người đó chính thức được coi như tội phạm đúng không?

  • Một người bị coi là có tội khi nào năm 2024
    (ảnh minh họa)

Căn cứ Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định nguyên tắc suy đoán vô tội như sau:

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

Như vậy, về nguyên tắc Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, theo Khoản 1 Điều 333 Bộ luật trên có quy định về thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Như vậy, không phải Tòa án sơ thẩm ra bản án kết tội thì người đó chính thức được coi như tội phạm mà còn 15 ngày kháng cáo theo trường hợp thông thường, nếu sau 15 ngày không kháng cáo, sau 30 ngày phía Viện kiểm sát cũng không kháng nghị thì bản án mới có hiệu lực, lúc này mới xác định được hành vi người này thực hiện và được coi là tội phạm.

Một người chỉ bị coi là có tội khi nào?

Tóm lại, hành vi bị coi là tội phạm có 4 dấu hiệu: nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được định tội danh và phải chịu hình phạt.

Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật?

Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực! Như vậy việc một người cho dù có bị bắt bị tạm giam, có Quyết định khởi tố và dù có bản án của Tòa án là người đó có tội nhưng nếu Bản án đó chưa có hiệu lực thì người đó vẫn được cho là không có tội.

Người bị buộc tội được coi là có tội khi nào?

Ở nước ta, tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được hiến định tại khoản 1, điều 31 Hiến pháp 2013: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật" .

Người đang bị khởi tố bị can là gì?

Bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về một tội phạm và đang bị điều tra.