Những câu nói về văn học dân gian
[Thaihabooks] Không giống như các thể loại văn học: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… văn học dân gian không xuất hiện giọng điệu của chủ thể cá nhân. Nó được ra đời từ sáng tác tập thể, trong nó được biểu thị tâm tư tình cảm của một loại người, cộng đồng nào đó trong xã hội. Mà mỗi khi đọc lên ta lại thấy được cái giọng điệu, quan điểm của tập thể đã được toát lên như thế nào. Show
Gập lại cuốn sách Văn học Dân gian cái hay, vẻ đẹp của Lê Xuân Mậu đã giúp tôi hiểu rõ hơn phần nào về kho tàng văn học ấy. Một kho tàng tri thức vô giá mang trong mình những lời dạy, lời đúc kết quý báu của bao đời dành cho các thế hệ sau. Dù nó được thể hiện dưới dạng văn vần, câu thơ, tục ngữ hay chỉ là bài đồng giao, câu đố. Thì những giá trị của nó dành cho con người là vô giá. Vậy mà sự tồn tại và cách đi của nó để có thể ăn sâu được vào tâm trí của từng người dân lại bằng con đường rất đơn giản: “truyền miệng”. Một thể loại phải nhớ tới đầu tiên khi nhắc tới nền văn dân gian này là ca dao. Lời của ca dao không là lời của nhân vật cụ thể. Nên những giọng điệu tươi vui, hoan hỉ hay thương cảm, oán trách… của nó chỉ là những trạng thái cảm xúc, sắc điệu của tình cảm. Và những hình tượng nhân vật trong nó bao giờ cũng đem tính phiếm chỉ, không phải một cá nhân nào mà lại là bất kì ai trong hoàn cảnh đó. Ví như một lời oán trách: Nào khi anh bủng anh beo Cũng thật trùng hợp khi có cùng quan điểm với tác giả rằng ca dao đâu cần hoa mỹ mới hay. Vì hầu hết các bài ca dao chỉ sử dụng những ngôn ngữ tự nhiên – đời thường, không cầu kỳ hoa mỹ và rất giản dị, mộc mạc nữa. Vì khi được nghe những câu ca dao như vậy ta sẽ không phài tìm tòi, suy ý kiểu vòng vo, ám chỉ bóng gió xa xôi mà cảnh tình đã được suy diễn trực tiếp. Thương anh hãy đứng xa xa Con mắt anh liếc cũng bằng ba đứng gần. Rất thẳng, thực và trực tiếp. Chẳng có gì là kín đáo, bóng gió nhưng những thấy được những mặt tinh vi của tình cảm được khêu gợi nếu ta có chút kinh nghiệm yêu đương và giao tiếp. Một điều nữa mà ta thấy không thể thiếu được trong ca dao đó là ví von. Và chẳng thế mà khi ca dao hát lên mọi người vẫn thường nói là hát ví, hay cũng quen thuộc với cụm từ “ví ví von von”. Nhưng với cuốn sách tôi đã nhận được ví von ở ca dao gắn liền với thao tác so sánh trong tư duy hình tượng của người sáng tác, gắn liền với hoạt động liên tưởng: Bây giờ mận mới hỏi đào Cố nhiên, do đặc điểm của ca dao và do yêu cầu được cộng đồng tiếp nhận của văn học dân gian nói chung. Những hình ảnh ví von tuy không phải là không có những hình ảnh mỹ lệ, nhưng nó vẫn có tính chất quen thuộc, ít xa lạ, ít mới mẻ. Và vì thế mà sức liên tưởng mạnh mẽ ở nhiều bài ca dao vẫn đầy sức hấp dẫn, những hình ảnh đẹp, những cảm xúc thẩm mĩ và kết quả nhân văn từ kết quả ví von. Khi nhắc đến ca dao chắc hằn không ai không thể nhắc đến tục ngữ. Ở tục ngữ ta thấy được sự thể hiện về những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp trong cuộc sống, trong phẩm chất đạo đức của người Việt ta. Nhưng để có được cái hồn ấy, tục ngữ lại có hình hài, da thịt đầy vẻ hấp dẫn. Và cái hay vẻ đẹp của ngôn từ cũng chính là cái duyên của tục ngữ. Khi nghe và đọc nhiều câu tục ngữ khác nhau, ta thấy được việc sử dụng những ngôn ngữ tài hoa như vậy là không hiếm. Có những từ ngữ sử dụng rất sáng tạo, gợi cảm và gây nhiều bất ngờ.< Cái nết đánh chết cái đẹp. Không những vậy ta còn biết đến tục ngữ không chỉ có một nghĩa. Nghĩa đen – nghĩa bóng là sự phân biệt thông thường với các nghĩa có thể có ở một câu. Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Chuyện nghĩa đen nghĩa bóng ở tục ngữ thường được sử dụng là không có gì mới, nhưng không ít khi ta lại phải phân vân để phân tích khi như một chuyên gia. Cái hay ở tục ngữ là vốn quý không chỉ về đạo lý, về kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên và con người mà còn là một kho kiến thức dùng ngôn ngữ cho mọi người và nói theo. Những hình ảnh khi còn bé vẫn cùng chúng bạn chạy quanh, hát những bài đồng giao của tôi lại hiện về khi được gặp lại những bài hát đó trong cuốn sách. Tôi cũng chẳng ngờ được từ những bài đồng giao đó đã dạy tôi cách nói năng. Nó đã giúp tôi phát âm chính xác âm “N” như khi bày chơi “Nu na nu nống, cái cống nằm trong, cái nong nằm ngoài…” Hay tôi đã biết thêm các bài vè về các loài cá, loài chim hay những loài hoa rồi đến cả các tháng trong năm. Tháng giêng là gió hây hây Ôi! Những bài đồng giao với ca từ mộc mạc, đơn giản. Vậy mà lại dạy được tôi những điều hay đến thế, vừa học vừa chơi một sự kết hợp đầy tinh tế cho cái tuổi ăn tuổi chơi trong những ngày thơ ấu. Không chỉ dừng lại ở những bài đồng giao mà chính tôi có thể đọc vanh vách lúc còn nhỏ, khi mà chưa biết được đến các mặt chứ i, t. Tuổi thơ tôi còn được lớn lên cùng những câu đó dân gian đầy hứng thú bên những ổ rơm khi cả gia đình tôi quây quần. Sừng sững mà đứng góc nhà Đã làm tôi phải nhảy lên vì những câu trả lời nhận được mà trong khi vò đầu bứt tóc cũng chẳng ra. Những câu đố vui, không khó nhưng lại cần tài quan sát, phát hiện để sao tránh khỏi được những cú “lừa” tinh tế. Những câu đố tương tự của mọi người dành cho tôi đã giúp tôi lớn lên nhiều và đó cũng là vũ khí lợi hại của tôi dành cho những người bạn nhí của mình, chí ít là cái thời ngây ngô khi được hồ hởi mang bút, phấn đến lớp học vỡ lòng tại trường làng.
Văn học Dân gian là một kho tàng tri thức vô giá. Thật rộng lớn cho tôi để có thể hiểu hết về nó. Nhưng với tôi khi gập lại cuốn sách thì những câu đố tinh quái, bài đồng giao với đa dạng chủ đề hay những câu ca dao, câu vần vè mượt mà đã ăn sâu trong tôi từ thủa ấu thơ lại được khuấy động và sục sôi hơn nữa. Và những bài học từ những câu ca dao, tục ngữ được đúc kết từ kinh nghiệm quý báu của cha ông sẽ mãi là kim chỉ nam cho tôi trong cuộc sống, một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Thanh Duy Tổng hợp những câu tục ngữ dân gian Việt Nam hay nhất với những chủ đề khác nhau được VnDoc tổng hợp trong bài viết dưới đây, mời các bạn cùng tham khảo bài viết. Tuyển tập các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam
Kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam khá là đồ sộ được chia theo từng chủ đề gắn liền với tâm tư tình cảm, kinh nghiệm sống của người Việt Nam xưa và nay. Trong bài viết này VnDoc sẽ giải thích rõ hơn cho các bạn ca dao là gì, tục ngữ là gì, những câu ca dao tục ngữ hay nói về cha mẹ, gia đình, quan hệ xóm giềng xã hội, về những đức tính tốt đẹp con người cần có như chữ tín, trung thành, siêng năng kiên trì, .... hay những kinh nghiệm lao động được đúc kết qua nhiều năm. 1. Tục ngữ là gì?Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. Nội dung tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể hiện triết lý dân gian của dân tộc. 2. Ca dao là gìCa dao là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. 3. Ca dao tục ngữ về giữ chữ tínMột lần bất tín, vạn lần bất tin. Nghĩa là nếu một lần bạn đã thất hứa, thì sau này người ta sẽ không tin bạn nữa. 2. Quân tử nhất ngôn Người quân tử chỉ nói một lời, tức đàn ông đã hứa là phải làm 3. Giấy rách còn giữ lấy lề Mặc dù khó khăn, gian khổ nhưng vẫn giữ được lòng tin, đức hạnh và sự tín nhiệm đối với những người khác. 4. Chữ tín còn quý hơn vàng. Tức nói vàng không mua được chữ tín. 5. Hứa hươu, hứa vượn Hứa này, hứa kia, hứa các kiểu mà chẳng bao giờ làm 6. Treo đầu dê, bán thịt chó. Ám chỉ những người thất hứa, không có chữ tín 7. Rao mật gấu, bán mật heo Ám chỉ những người thất hứa, không có chữ tín 8. Rao ngọc, bán đá Ám chỉ những người thất hứa, không có chữ tín 9. Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Ý muốn nói người quân tử đã làm mất lòng tin thì 4 ngưa sẽ xé xác (câu này thường gặp trong phim cổ trang Trung Quốc) 10. Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Để có được lòng tin từ người khác thì bạn trải qua biết bao điều, tuy nhiên chỉ 1 lần thất hứa bạn sẽ không còn lòng tin từ người khác. 11. Nhất ngôn cửu đỉnh Ý nói rằng một lời nói đã lọt qua 9 cái đầu của hàm rang rồi thì khó lòng mà rút lại được. 12. Lời nói như đinh đóng cột Đã nói ra thì chắc chắn phải thực hiện 13. Bảy lần từ chối còn hơn một lần thất hứa Thà bạn từ chối không làm, còn hơn là nhận lời mà không làm chắc chắn sẽ mất lòng tin với người khác. Ca dao Người sao một hẹn thì nên Người sao chín hẹn thì quên cả mười Có người thì hẹn một lần nhưng đều thực hiện được, giữ đúng lời hứa. Có người thì hẹn chín lần nhưng quên tới cả mười lần, tức là không thực hiện 2. Nói lời phải giữ lấy lời Đừng như con bướm đậu rồi lại bay Đã nói ra thì phải đảm bảo lời nói, đã hứa thì phải làm. 3. Nói chín thì phải làm mười Nói mười làm chín, kẻ cười người chê. Ý nghĩa của câu nói trên là nói ít, hứa hẹn ít mà chăm chỉ làm sẽ được mọi người yêu quý; còn nói nhiều, hứa hẹn nhiều mà lại làm ít thì chỉ là kẻ ba hoa, lười biếng, luôn bị người đời cười chê. 4. Kiếm củi ba năm, thiêu một giờ Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng Ý muốn nói làm ra, gây dựng lên thì khó, nhưng hủy hoại, phá đi thì lại quá dễ, nên cần phải biết trân trọng những thành quả đã làm ra, và làm gì cho xứng đáng với điều đó. 5. Hay gì lừa đảo kiếm lời Cả nhà ăn uống, tội trời riêng mang. Nói rằng làm người phải sống ngay thẳng và có chữ tín, đừng đi lừa đảo người khác sau đó những tội lỗi đều riêng bản thân mình phải nhận lấy. >> Xem thêm: Tổng hợp thành ngữ, tục ngữ, ca dao theo chủ đề 4.Ca dao, tục ngữ về quan hệ xóm giềng, xã hội- Ăn cây nào, rào cây ấy - Kính lão, đắc thọ - Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. - Bán anh em xa mua láng giếng gần. - Cái sảy nảy cái ung - Cả giận mất khôn. - Đói cho sạch, rách cho thơm. - Không tham của người. - Lạt mềm buộc chặt Già néo đứt dây. - Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. - Một điều nhịn, chín điều lành. - Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại lên hòn núi cao. - Mình vì mọi người, mọi người vì mình - Nói lời phải giữ lấy lời Đừng như con bướm đậu rồi lại bay. - Nhặt được của rơi, trả người bị mất. - Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước thì thương nhau cùng. - Ở hiền thì lại gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho. - Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. - Tối lửa tắt đèn có nhau. - Thương người như thể thương thân. - Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu sửa mình. - Xóm giềng tối lửa tắt đèn có nhau./. 5. Ca dao tục ngữ về cha mẹ5.1. Tục ngữ về mẹ cha1. Tử hiếu song thân lạc, gia hòa vạn sự hưng (thành). 2. Mồ côi cha, ăn cơm với cá. Mồ côi mẹ lót lá mà nằm. 3. Mẹ dạy thì con khéo, bố (cha) dạy thì con khôn. 4. Mẹ ngoảnh đi con dại, mẹ ngoảnh lại con khôn. 5. Mẹ giàu con có, mẹ khó con không. 5.2. Ca dao về cha mẹ1. Đêm đêm thắp ngọn đèn trời, 2. Đêm khuya trăng rụng xuống cầu, 3. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, 4. Mẹ nuôi được mười con, 5. Mẹ cha gánh vác hy sinh, 6. Mẹ già ở tấm lều tranh, 7. Mẹ già như chuối ba hương, 8. Mẹ già hết gạo treo niêu, 9. Mẹ già như ánh trăng khuya, 10. Mẹ còn chẳng biết là may, 6. Một số câu ca dao tục ngữ nói về tính siêng năng kiên trìTỤC NGỮ: - Có chí thì nên - Hữu chí cánh thành. - Có chí làm quan, có có gan làm giàu. - Người có chí thì nên, nhà có nền thì vững. - Mưu cao chẳng bằng chí dày. - Thua keo này bày keo khác. - Trời sinh voi, trời sinh cỏ. - Hết cơn bĩ cực, đến kì thái lai. - Ai đội đá mà sống ở đời. - Ba cái vui thì trẻ, ba cái bẽ thì già. - Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. - Chớ vì nghẹn một miếng mà bỏ bữa bỏ ăn, chớ vì ngã một lần mà chân không bước. - Có cứng mới đứng được đầu gió. - Không vào hang hổ, sao bắt được hổ. - Mảng lo khó, bó không chặt. - Trăm bó đuốc cũng vớ được con ếch. - Kiến tha lâu đầy tổ. - Có công mài sắt có ngày nên kim. CA DAO: - Ngọc kia chuốt mãi cũng tròn, - Dẫu rằng chí thiễn tài hèn - Ai ơi giữ chí cho bền - Hãy cho bền chí câu cua, - Người đời ai khỏi gian nan - Có bột mới gột nên hồ - Ai ơi giữ chí cho bền - Trời nào có phụ ai đâu - Non cao cũng có đường trèo - Non cao cũng có đường trèo 7. Các câu ca dao Việt Nam1. Ai ai cũng có duyên phần, Bon chen mặc kẻ, tảo tần thây ai. 2. Ai làm cái phận em nghèo, Kém ăn, kém nói, kém điều khôn ngoan. Bởi chưng chẳng có bạc vàng, Cho nên em phải nhường khôn cho người. 3. Ai mà lấy thúng úp voi, Úp sao cho khỏi lòi vòi, lòi đuôi? 4. Ăn nhanh, đi chậm, hay cười, Hay mua đồ cũ là người Việt Nam. 5. Ăn rươi chịu bão cho cam Không ăn chịu bão, thế gian cũng nhiều. 6. Ba đồng một mớ đàn ông, Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha. Ba trăm một mụ đàn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. 7. Bần gie, bần ngã, bần quỳ, Cảm thương thân phận chia li thêm buồn. 8. Buôn bấc rồi lại buôn dầu, Buôn nhiễu đội đầu, buôn nhẫn lồng tay. Sầu về một tiết tháng giêng, May áo cổ kiềng người mặc cho ai. Sầu về một tiết tháng hai, Bông chửa ra đài người đã hái hoa. Sầu về một tiết tháng ba, Mưa héo ruộng cà nắng cháy ruộng dưa. Sầu về một tiết tháng tư, Con mắt lừ đừ cơm chẳng buồn ăn. Sầu về một tiết tháng năm, Chưa đặt mình nằm gà gáy sang canh. 9. Buồn rầu, buồn rỉ, buồn nỉ, buồn non, Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng. 10. Buồn từ trong dạ buồn ra, Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo. 11. Buồn về một tiết tháng giêng, May áo cổ kiềng người mặc cho ai. Buồn về một tiết tháng hai, Bông chửa ra đài người đã hái hoa. Buồn về một tiết tháng ba, Con mắt la đà trong dạ tương tư. Buồn về một tiết tháng tư, Con mắt lừ đừ cơm chả buồn ăn. Buồn về một tiết tháng năm, Chưa đặt mình nằm gà gáy chim kêu. Buồn về tiết tháng sáu này, Chồng cày vợ cấy chân chim đầy đồng, Bấy giờ công lại hoàn công. 12. Cái vòng danh lợi cong cong, Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào. Cá trong lờ đỏ hỏe con mắt, Cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô. Tung tăng như cá trong lờ, Trong không ra được, ngoài ngờ là vui. 13. Chết thời cơm nếp thịt gà, Sống thời xin bát nước cà không cho. 14. Có tiền chán vạn người hầu, Có bấc có dầu, chán vạn người khêu. 15. Con cò mắc rò mà chết, Con quạ mua nếp làm chay, Con cu đánh trống ba ngày, Chào mào đội mũ làm tầy đọc văn. Láng giềng chạy đến lăng xăng, Mua ba thước vải đội khăn cho cò. 16. Con quạ ăn dưa, bắt con cò phơi nắng, Nghĩ chuyện đời, cò trắng quạ đen. Con quạ mà biết mình đen, Nó đâu có dám mon men tới cò. 17. Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá: cá lặn; trông sao: sao mờ. Buồn trông con nhện chăng tơ, Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai? Buồn trông chênh chếch sao Mai, Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ? 18. Đời cha đi hái hoa người, Đời con phải trả nợ đời thay cha. 19. Đói lòng ăn quả khổ qua, Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười. 20. Đời xưa kén những con dòng, Đời nay ấm cật no lòng thì thôi. 21. Đời xưa quả báo còn chầy, Đời nay quả báo một dây nhãn tiền. 22. Chùa nát nhưng có Bụt vàng, Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng. 23. Ai đi cách trở sơn khê Nhớ tô mỳ Quảng, tình quê mặn nồng. 24. Ai mà quyết chí tu hành, Có đi Yên Tử mới đành lòng tu. Chữ rằng phi hữu phi vô, Có đi Đông độ mới đồ Tây phương. 25. Ai qua Yên Tử - Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm chưa đến, thiền tâm chưa đành. 26. Ai về Bình Định mà nghe, Nói thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam. 27. An Lãng bánh đúc, bánh đa, Ngân Cầu bánh bỏng, Hương La bánh bèo. 28. An Phú nấu kẹo mạch nha, Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua. Họ Lại làm giấy sắc vua, Làng Láng mở hội kéo cờ hùng nghê. 29. Anh Sơn phủ bạc thiếp hòe, Gió Nam Đàn thổi, Liễu về với xuân. 30. Ấy ngày mồng sáu tháng ba, Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây. Hò chơi bên gái bên trai, Xin cùng cô bác đừng ai nghi ngờ. 31. Bà phải có ông chồng phải có vợ, Giàu thì một lọ khó thì một niêu. Dù cho cha đánh mẹ treo, Cũng không bỏ được Chùa Keo ngày rằm. 32. Ba Xã có lưới quăng chài, Mật Ninh hút thuốc kéo dài cổ ra. 8. Ca dao tục ngữ về thầy côMuốn sang thì bắc cầu Kiều Mười năm rèn luyện sách đèn Xem thêm: Những câu ca dao tục ngữ hay nhất về thầy cô 9. Những câu ca dao về tình yêu quê hương đất nước con người1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. Đồn rằng chợ Bỏi vui thay 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. >> Xem thêm: Tổng hợp ca dao Việt Nam 10. Những câu tục ngữ Việt NamA Ao có bờ sông có bến
Ă Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
 Ân trả nghĩa đền Ân đoạn nghĩa tuyệt B Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
C Có chí thì nên
D Dao sắc không gọt được chuôi
Đ Đất lành chim đậu.
G Gieo gió gặp bão
GIGià rồi còn chơi trống bỏi: chê người già lấy vợ trẻ, người già còn mê nhan sắc
E Em nghe tiếng hát đâu xa Còn trẻ hay già mà còn tinh vang. Ê Êm như ru Ếch ngồi đáy giếng H Hai đánh một không chột cũng què
K Khôn ăn cái, dại ăn nước.
L Lá rụng về cội
M Muôn người như một ăn cột mà ra
M Mẹ cày con cấy.
N Năm nắng mười mưa
NH Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm
NG Người sống đống vàng.
O Oán không giải được oán
Ô Ông thò chân giò, bà thò nậm rượu
Ơ Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác
P Phép nước lệ làng.
Q Quân tử phòng thân; tiểu nhân phòng bị, gậy.
R Rao ngọc bán đá
S Sinh nghề tử nghiệp
T Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
TH Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt
U Uống nước nhớ nguồn Ư Ước gì được nấy
V Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
X Xa sông, cách núi.
Y Yêu nhau lắm, cắn nhau đau
|