Phương pháp phân tích báo cáo tài chính là gì
Phân tích báo cáo tài chính (financial statement analysis) là việc sử dụng các công cụ và kĩ thuật phân tích để xem xét mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, từ đó đánh giá về tình hình tài chính hiện tại cũng như dự báo về tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. Show
Phân tích báo cáo tài chính công ty có thể do bản thân công ty hoặc các tổ chức bên ngoài công ty bao gồm các nhà cung cấp vốn như ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các nhà đầu tư như công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư,… thực hiện Tùy theo lợi ích khác nhau, các bên có liên quan thường chú trọng đến những khía cạnh phân tích khác nhau. Đối với ngân hàng thương mại nói chung và phục vụ mục đích thẩm định tín dụng nói riêng, việc phân tích báo cáo tài chính thường chú trọng đến tình hình thanh khoản và khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn. 3 dấu vết không hợp lý trên tài sản khi phân tích BCTCĐằng sau những số liệu tài chính ảo là nước mắt nghẹn ngào của cổ đông. Và để có được góc nhìn tài chính sáng suốt, không nuốt nhầm trái đắng ngậm ngùi, hơn ai hết mỗi cá nhân cần nhận biết được những khoản mục đáng ngờ. Cùng TACA gột rửa 3 vết nhơ trên khoản mục tài sản của doanh nghiệp. (1) Nhiều tiền mặt một cách ‘hư cấu’Người ta thường thích nói về các doanh nghiệp có nhiều tiền, có người còn coi đó là tiêu chí ưu tiên để đánh giá doanh nghiệp. Nhưng họ không hiểu rằng “Tài sản càng thanh khoản, càng dễ làm giả” và thứ có thanh khoản cao nhất chính là tiền mặt. Quá trình gian lận tiền mặt sẽ đi theo trình tự lần lượt thế này: Tiền mặt trong két (chỉ tốn đúng 5s để làm giả và chả tốn tí chi phí nào), Tiền gửi kỳ hạn < 3 tháng (tốn 5 phút ký tá và tí xăng xe chạy ra Bank), …. Cứ thế, tiền gửi càng dài thì càng an tâm vì chi phí làm giả càng cao và quy trình xử lý càng phức tạp. Tốt nhất là tiền gửi Bank thì phải là kỳ hạn > 1 năm và để chắc ăn phải rà thêm lưu chuyển tiền đầu tư để tra soát thêm quy mô nạp rút vào Bank. Nếu vẫn chưa tin, hãy ngồi lọc thử những cổ phiếu có tiền mặt ròng nhiều nhất và tự kiểm định. Sẵn tiện nghiên cứu thêm vụ gần 800 tỷ đồng tiền mặt của JVC sau một đêm còn đúng ‘cái nịt’ là hiểu “Nhiều tiền mà để làm gì”. (2) Khoản phải thu ‘tử thần’Dưới đây là 3 khoản phải thu mà khi chiếm trọng số nhiều, không cần đọc sâu hơn, bạn phải bật chế độ cảnh giác cao độ: Thứ nhất: Trả trước cho người bán. Làm giả khoản mục này về cơ bản chả tốn chi phí gì, về thời gian thì chỉ mất vài giây ký hợp đồng. Thứ nhì: Hợp tác đầu tư. Chiêu này còn lợi hại hơn chiêu bên trên nhiều, vừa ngon vừa bổ vừa rẻ nhưng lại vừa làm được quy mô lớn mà cổ đông cũng chẳng “động chạm” đến được. Đơn giản các dự án hợp tác đầu tư thì đều là bảo mật thông tin hoặc ở vùng sâu vùng xa chẳng ai ‘sờ gáy’ được. Thứ ba: Các khoản cho vay. Mánh này cũng nhanh gọn lẹ khi chỉ tốn chút thời gian làm hợp đồng và tốn ít tiền lãi vay tượng trưng. Mánh này thì cũng làm được với quy mô lớn nhưng cho vay nhiều giải thích với cổ đông cũng đến mệt. Hãy thử xem lại những case kinh điển liên quan đến khoản phải thu như: DVD, KSA, VHG, OGC, HAG,… để hiểu vấn đề. (3) Đầu tư tài chính ồ ạtKhoảng 5 năm nay, mô hình Holdings đã mọc lên như nấm. Những chuyên gia trong ngành cũng không còn lạ gì bản chất của các doanh nghiệp này. Thực tế, doanh nghiệp chẳng sản xuất cái gì, cũng chẳng buôn bán gì cả, họ chỉ “ký sinh trùng dài hạn” vào những doanh nghiệp ăn lên làm ra. Đây chính xác là dạng doanh nghiệp đúng “không làm mà vẫn có ăn”. Thử đọc báo cáo tài chính của: FLC, NHP, VHG, ….. và so sánh với báo cáo tài chính của những doanh nghiệp holding thực thụ như: REE, VEA,… bạn sẽ thấy sự khác nhau rất lớn về danh mục đầu tư và tính minh bạch trong cung cấp thông tin trên báo cáo tài chính.
|