So sánh kinh tế việt nam và philippin năm 2024
Mặc dù thấp hơn mục tiêu đề ra của chính phủ ở mức 6% - 7%, tăng trưởng GDP của Philippines trong năm 2023 đạt 5,6%, cao nhất trong số các nước Đông Nam Á đã báo cáo. Show
Trong khi đó, GDP của Việt Nam tăng 5,05% trong năm 2023. Indonesia, nền kinh tế lớn nhất khu vực, ước đạt mức tăng trưởng 5% trong cùng kỳ. Tỷ lệ này của Malaysia, Thái Lan và Singapore lần lượt là 3,8%, 1,8% và 1,2%. Các khu vực tiêu dùng, dịch vụ và đầu tư là những động lực tăng trưởng chính của Philippines trong năm 2023. Bộ trưởng Kế hoạch Kinh tế Philippines Arsenio Balisacan hôm thứ Tư cho biết chính phủ nước này tự tin vào kịch bản tăng trưởng từ 6,5% - 7,5% trong năm 2024. Năm ngoái, nền kinh tế Philippines đối mặt với nhiều khó khăn như giá thực phẩm tăng và tắc nghẽn chuỗi cung ứng. Để đáp lại, chính phủ và ngân hàng trung ương nước này đã thực hiện hàng loạt chính sách thắt chặt, bao gồm áp giá trần đối với gạo và tăng lãi suất cơ bản lên mức cao nhất trong nhiều năm. Theo ông Balisacan, trong thời gian tới, Philippines sẽ cần đầu tư mạnh hơn vào nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp, vốn chiếm 10% GDP. Nguồn hình ảnh, NHAC NGUYEN/AFP qua Getty Images Chụp lại hình ảnh, Tổng thống Philippines Ferdinand Romualdez Marcos Jr (trái) thăm Việt Nam trong hai ngày 29, 30/1. Thương mại gạo là một trong những trọng tâm hợp tác giữa hai nước. Trong chuyến thăm Việt Nam đầu tuần này của Tổng thống Philippines Ferdinand Romualdez Marcos Jr, thương mại gạo được cho là một trong những trọng tâm. Hiện gạo Việt Nam đang chiếm đến 85% tổng lượng gạo nhập khẩu của Philippines. Về phía Việt Nam, Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 từ 6% - 6,5%, nhỉnh hơn các kịch bản của ADB, IMF và WB (lần lượt là 6%, 5,8% và 5,5%). Cả Việt Nam và Philippines đều được dự báo trở thành những nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á trong khoảng 2 thập kỷ tới. Theo bảng xếp hạng World Economic League Table do CEBR công bố tháng 12/2023, tới năm 2038, kinh tế Việt Nam sẽ đứng thứ 2 Đông Nam Á (sau Indonesia) và thứ 21 thế giới, còn Philippines xếp thứ 3 khu vực và thứ 23 thế giới. Tuy vậy, trước mắt chính quyền Tổng thống Marcos sẽ phải đối mặt với những thách thức từ kinh tế toàn cầu ảm đạm, leo thang căng thẳng với Trung Quốc trên Biển Đông, hay mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa ông Marcos với người tiền nhiệm Rodrigo Duterte. Chúng ta hay so sánh giữa Việt Nam và Philippines, nước nào giàu hơn? Bài viết này sẽ cho bạn biết tại sao Việt Nam lại “trông” giàu hơn Philippines và nước nào mới là nước giàu hơn.
1. Thống Kê Hộ NghèoCâu trả lời thật ra rất đơn giản: Người dân Việt Nam nói chung giàu có hơn người dân Philippines. Tôi sẽ trình bày một số dữ liệu khô khan ở dưới để có thể thuyết phục các bạn rằng đây chính là thực tế. Có những lý do cho việc tại sao Philippines lại bị khắc hoạ tiêu cực như một trong những quốc gia nghèo nhất trong khối Đông Nam Á, và tại sao Việt Nam lại đang ngày càng tránh được hình ảnh đó hơn, bất kể việc vừa thoát khỏi một cuộc chiến tương đối gần. Không phải vì sự thiên vị của ‘truyền thông phương Tây’ hay cố tình gây giật gân gì cả. (Note: Khúc này tôi hơi lú các bác ạ). Hình 1: So sánh Sun World ở Việt Nam với Enchanted Kingdom ở Philippines. @quora.com Xem thêm nhiều hình ảnh so sánh giữa các thành phố của Việt Nam với Philippines tại đây. Đầu tiên, liệu Việt Nam có thật sự giàu có hơn Philippines hay không là một câu hỏi khó có thể trả lời chính xác vào thời điểm hiện tại, vì nền kinh tế của cả hai có sự cách biệt không đáng kể. Tuy nhiên, việc này không hoàn toàn quan trọng trong việc giải đáp câu hỏi tôi đang trả lời. Chúng ta không thể nhận xét rằng Philippines hay Việt Nam giàu có hơn Qatar, chỉ bởi vì họ có một nền kinh tế lớn hơn. Để có thể chắc chắn rằng chúng ta đánh giá họ một cách công bằng, ta nên dựa vào chính người dân của 2 nước. Thống Kê Tỉ Lệ Nghèo Quốc Gia Cả hai quốc gia có những chuẩn nghèo khác nhau, thực tế là Việt Nam đã đi xa hơn và đặt ra những chuẩn nghèo khác nhau dựa trên từng địa phương. Để triệt tiêu hoàn toàn những thiên vị được tạo nên từ sự khác biệt giữa chuẩn nghèo của 2 quốc gia, tôi sẽ sử dụng dữ liệu từ World Bank được phân ra thành 3 tỷ lệ khác biệt. 1.1. Tỉ Lệ Nghèo Cùng CựcTừ biểu đồ đầu tiên này ta đã có thể thấy một vài điều rất thú vị: Hình 2: Tỉ lệ nghèo bình quân đầu người 1,9$/ngày (2011 PPP) (% dân số). @quora.com Đúng vậy, khởi đầu của thiên niên kỷ thì người Việt Nam chắc chắn nghèo hơn rất nhiều người Philippines tại thời điểm đó. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo cùng cực bình quân đầu người của Việt Nam có sự giảm sút đáng kinh ngạc với tỷ lệ 33.8% chỉ trong vòng 8 năm. Sự ‘phát triển’ của Philippines có vẻ nhạt nhoà khi đặt lên bàn cân với Việt Nam. Năm 2009 – 2010 là thời điểm mà Việt Nam chính thức có được tỷ lệ nghèo cùng cực thấp hơn Philippines. 1.2. Tỉ Lệ Nghèo 3.20$/ngàyBiểu đồ thứ hai thể hiện nên sự giảm sút đáng ngạc nhiên hơn nữa của Việt Nam. Điều này biểu hiện rằng đã có rất nhiều người thoát khỏi tỷ lệ nghèo 3.20$/ngày này: Hình 3: Tỉ lệ nghèo bình quân đầu người 3,2$/ngày (2011 PPP) (% dân số). @quora.com Một lần nữa, sự tiến triển của Philippines lại làm nước này ‘trông’ có vẻ nghèo. 1.3. Tỉ Lệ Nghèo 5.5$/ngàySau khi điều chỉnh lạm phát cho tỉ lệ này thì con số tương ứng cho tỉ lệ này là 185 USD/tháng cho một người; Hoặc khoảng 9,388 PHP một tháng một người (số liệu ngày 26/4/2020) Hoặc khoảng 4,332,174 VND một tháng một người (số liệu ngày 26/4/2020) Đây là một con số cao hơn đáng lưu ý so với tiêu chuẩn cả 2 quốc gia đặt ra khi đánh giá về ‘hộ nghèo’, điều này cũng khiến biểu đồ thứ 3 này hữu ích nhất trong cả 3 khi vượt qua tỉ lệ này đồng nghĩa với việc ‘thoát nghèo’ và bước chân vào tầng lớp trung lưu. Hình 4: Tỉ lệ nghèo bình quân đầu người 5,5$/ngày (2011 PPP) (% dân số). @quora.com Từ biểu đồ này ta có thể thấy:
Ba biểu đồ trên khá là chắc kèo đã tổng kết lại tại sao Việt Nam ‘trông’ có vẻ giàu có hơn người hàng xóm phía Đông của họ, bởi vì tỷ lệ ‘hộ nghèo’ của Việt Nam thấp hơn Philippines rất nhiều. 2. Tầng lớp tinh hoa của đất nướcNhững thông tin phía dưới một lần nữa sẽ tái khẳng định thông điệp của phần 1, nhưng cung cấp thêm càng nhiều dữ liệu và phơi bày sự bất bình đẳng trong thu nhập tệ như thế nào. Các dữ liệu đã được ngụy trang và che dấu bởi những “số liệu đơn giản” như GDP bình quân đầu người hay GNI bình quân đầu người ra sao, đặc biệt là ở Philippines. Bạn không nhất thiết phải đọc tiếp, cá nhân tôi rất thích đào sâu vào những chủ đề như thế này và rất sẵn lòng cung cấp góc nhìn của bản thân cho những ai muốn tìm hiểu thêm. Thống Kê Về Tầng Lớp Tinh Hoa Của Đất Nước Có một câu tranh luận kinh điển như thế này: Philippines hiện tại có số lượng tỉ phú (dollar) nhiều hơn Việt Nam, vậy nên Philippines có nhiều tập đoàn lớn hơn và được biết đến nhiều hơn ở phương diện quốc tế, trong khi đó các tập đoàn của Việt Nam trở nên lu mờ khi so sánh. Để có thể giải quyết câu tranh luận này, trước hết tôi xin chỉ ra rằng việc giả định sự giàu có của một công ty bất kỳ là một lập luận không hề công bằng một chút nào; thật sự là phù phiếm khi nói rằng “Những nhân viên của công ty này, và sau đó là cả người dân của quốc gia này giàu có chỉ bởi vì ông sếp của công ty này giàu” Để loại trừ đi bất kỳ sự thiên vị nào, tôi sẽ trực tiếp so sánh dân số thực tế và sự hiện diện của tầng lớp tinh hoa ở cả hai quốc gia. 2.1. Giới Siêu GiàuYup, không có gì để tranh luận ở đây khi Philippines hiện tại có số lượng tỉ phú gấp 3 lần Việt Nam theo số liệu năm 2019. Hình 5: Bảng dữ liệu tỉ phú. @Knight Frank 2.2. Giới Thượng LưuĐây là khi mọi thứ bắt đầu trở nên thú vị: Hình 6: Bảng dữ liệu tỉ phú sở hữu khối tài sản trên 30 triệu USD. @Knight Frank Năm 2014, Philippines có số lượng triệu phú sở hữu khối tài sản trên 30 triệu USD gần như gấp 3 lần Việt Nam trong bảng số liệu trên. Tuy nhiên chỉ trong 4 năm sau, Việt Nam đã thu hẹp lại khoảng cách đó xuống còn 1.2 lần. Năm 2024, Việt Nam được dự đoán rằng sẽ có số lượng triệu phú sở hữu khối tài sản trên 30 triệu USD cao hơn so với Philippines, đảo ngược lại bảng số liệu. Chú ý một điều rằng điều này đi kèm với sự sụt giảm tỷ lệ nghèo của Việt Nam. Có một khởi đầu tệ hơn Philippines nhưng kết quả Việt Nam lại có sự phát triển tốt hơn sau hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21. 2.3. Tầng Lớp Tinh HoaCũng tương tự như mức chuẩn nghèo cao nhất ở phần đầu, ngưỡng cửa thấp nhất để có thể được coi là ‘giàu’ vẽ nên một khung cảnh rất trái ngược so với những gì mọi người tưởng tượng ở Philippines, một nước có chỉ số GDP cao hơn. Hình 6: Bảng dữ liệu tỉ phú sở hữu khối tài sản trên 1 triệu USD. @Knight Frank Chỉ trong năm 2014, Việt Nam đã có số lượng triệu phú sở hữu khối tài sản trên 1 triệu USD cao hơn so với Philippines; bất kể việc có mức dân số thấp hơn 9.6% so với Philippines. Năm 2018 và 2019, khoảng cách giữa số lượng trên tiếp tục giãn cách ra nghiêm trọng với cán cân nghiêng về Việt Nam. Việt Nam tại một thời điểm đã trở thành quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới về mức độ tăng trưởng triệu phú, Philippines thậm chí còn không vào được top 10. Năm 2024, Việt Nam được dự đoán sẽ có số lượng triệu phú sở hữu khối tài sản trên 1 triệu USD gấp đôi so với Philippine, bất kể việc dân số Philippines đông hơn khoảng 13%. Khi tôi tìm thấy bản báo cáo này, tôi ngay lập tức nhận thấy tại sao người dân sinh sống tại các thành phố như Tp.HCM hay Hà Nội, ví dụ, trông phấn khởi hơn so với người dân tại Metro Manila. Cuộc sống cũng rực rỡ hơn. Đơn giản là vì số lượng người giàu của Việt Nam nhiều hơn và số lượng người nghèo của Việt Nam cũng ít hơn. Nó cũng cho thấy một điều về sự bất bình đẳng về thu nhập ở Philippines. Không chỉ đơn giản là giữa người giàu và người nghèo, mà ngay cả trong tầng lớp tinh hoa của họ cũng có sự chênh lệch lớn về tài sản. Việt Nam không chỉ đưa hàng triệu người thoát nghèo vào khoảng năm 2009. Việt Nam còn chứng kiến sự tăng trưởng mãnh liệt ở tầng lớp trung thượng lưu và thu nhập cao gần đây. Theo cá nhân tôi, một quốc gia có số lượng 22,129 người/gia đình thuộc tầng lớp tinh hoa nhiều hơn so với quốc gia kia; giàu có hơn một quốc gia có hơn 11 tỉ phú/gia đình, nhưng lại ít hơn hàng chục nghìn triệu phú. 3. Tranh luận về tài sản trung bình quốc giaChúng ta đã đánh giá qua tầng lớp siêu giàu và cả những hộ nghèo. Liệu mọi thứ có tiếp diễn nghiêng về Việt Nam ở phần chiếm đa số là tầng lớp trung lưu? Có thể là Philippines có nhiều hộ nghèo hơn, nhưng tầng lớp trung lưu của họ nói chung lại giàu có hơn tầng lớp trung lưu tại Việt Nam? Hơn nữa, Philippines cũng có GDP bình quân đầu người cao hơn, không phải sao…? Lần này tôi sẽ sử dụng dữ liệu từ Credit Suisse’s Global Wealth Databook vào năm 2019. Một điều đáng ngưỡng mộ là họ bao gồm cả mean wealth per capita (tài sản trung bình bình quân đầu người) và median wealth per capita (tài sản trung vị bình quân đầu người). Ghi nhớ rằng, đây là về wealth (tài sản) chứ không phải là income (thu nhập). Hơn nữa, bản bảo cáo trên cực kỳ hữu ích khi nó chỉ báo cáo về tầng lớp trưởng thành (adult); loại đi một số lượng lớn những người trẻ tuổi chưa nên đi làm, chưa có khả năng kiếm tiền và tích trữ của cải. Note: Tôi không biết dịch như thế nào để phân biệt mean wealth (tài sản trung bình) và median wealth (tài sản trung vị) nên sẽ để luôn thuật ngữ Tiếng Anh nhá (phần trong ngoặc đơn là tôi chém đại đấy). Bác nào biết có thể comment hộ tôi. Tôi đã góp nhặt dữ liệu các quốc gia ASEAN bên dưới: Hãy nhìn vào mục mean wealth (tài sản trung bình) trước: Hình 7: Bảng dữ liệu mean wealth per adult (tài sản trung bình bình quân người trưởng thành) các quốc gia Đông Nam Á. @Credit Suisse’s Global Wealth Databook Không có quá nhiều bất ngờ ở đây: Việt Nam chỉ ở phía dưới Philippines (khoảng cách chỉ là 351$, một điều quan trọng bạn cần lưu ý). Điều này tương tự với bảng số liệu GDP (PPP) bình quân đầu người và GNI bình quân đầu người. Bất ngờ lớn nhất có lẽ là việc Indonesia có số liệu tệ hơn so với hai quốc gia trên, trong khi đó Lào (quốc gia thường được xem là ngang ngửa với Việt Nam một số lần ở những số liệu đơn giản) lại giảm sút một cách rõ rệt với gần 5000$. Hãy tái sắp xếp lại bảng trên theo thứ tự của median wealth per adult (tài sản trung vị bình quân người trưởng thành), sẽ cho chúng ta kết quả: Hình 8: Bảng dữ liệu median wealth per adult (tài sản trung vị bình quân người trưởng thành) các quốc gia Đông Nam Á. @Credit Suisse’s Global Wealth Databook Bây giờ quay trở lại với bảng dữ liệu thứ hai:
Vậy nên ta có thể khẳng định rằng giả thuyết ta đặt ra ở trên, là KHÔNG chính xác. Tầng lớp trung lưu của Việt Nam thể hiện rằng họ giàu có hơn, khi so ở mức trung bình với Philippines. Đây là lần thứ 3 ta kết luận Việt Nam ‘hơn’ sau khi đã thảo luận về thống kê của tầng lớp tinh hoa và các hộ nghèo. Giờ hãy nhìn xem quốc gia nào sẽ có tổn thất nhiều nhất khi lấy mean – median wealth per capita (tài sản trung bình – tài sản trung vị bình quân đầu người) theo phần trăm. Hình 9: Bảng dữ liệu sau khi mean – median wealth (tài sản trung bình – tài sản trung vị) các quốc gia Đông Nam Á. @Credit Suisse’s Global Wealth Databook Không có gì đáng ngạc nhiên ở đây đối với Philippines và Việt Nam cả. Quốc gia sau vẫn lấy tự hào về việc phân phối tài sản bình đẳng một cách đáng kinh ngạc dù rằng median wealth (tài sản trung vị) có thể được xem là cao. 4. Tranh luận về tổng sản phẩm trên địa bànBạn vẫn không thấy thuyết phục khi nói rằng Việt Nam thật sự là những người giàu có hơn? Tất cả chúng ta có lẽ đều đã sai lầm khi sử dụng GDP bình quân đầu người để phân biệt giữa các quốc gia. Trong mục này, tôi sẽ cho bạn thấy lợi ích của việc nghi ngờ và nghiên cứu kỹ lưỡng dữ liệu tổng sản phẩm trên địa bàn. (Note: Câu này tôi cũng hơi lú) Một vài điều tôi cần làm rõ về phương pháp luận của tôi:
Phía dưới là bảng dữ liệu của Việt Nam, và bản đồ về cách mà tôi phân bố từng khu vực Hình 10: Bảng dữ liệu GRDP bình quân đầu người từng khu vực của Việt Nam (2018) và bản đồ phân bố từng khu vực. @quora.com
Hình 11: Bảng dữ liệu GRDP bình quân đầu người từng khu vực của hai nước (2018). @quora.com
Sẽ như thế nào nếu ta so sánh các khu vực giữa hai quốc gia? Hình 12: Bảng dữ liệu so sánh GRDP bình quân đầu người từng khu vực của hai nước (2018). @quora.com
Nhưng chờ đã! Tôi đã đặt ra những mức khác nhau để tạo nên 3 so sánh, bạn có thể tranh luận rằng việc thay đổi những con số của mức trên cũng có thể thay đổi quan điểm của bạn về các dữ liệu này. Bởi vậy tôi đã tạo nên biểu đồ phía dưới để có thể so sánh giữa 2 quốc gia và tránh bất kỳ sự thiên vị nào. Hình 13: Biểu đồ dữ liệu so sánh GRDP bình quân đầu người từng khu vực của hai nước (2018). @quora.com
Dù vậy, có một vấn đề lớn với cách phân tích này. Tính đến hiện tại, tôi đã đưa ra các tỷ trọng tương đương cho mỗi khu vực, tuy nhiên mỗi khu vực khác nhau lại có số lượng dân số khác nhau! Đây là khi mọi chuyện trở nên thú vị hơn về số liệu của GRDP. Đây là một bản thể hiện tốt hơn dữ liệu từng khu vực, nhưng bây giờ số liệu dân số của mỗi nước cũng sẽ được nhấn mạnh… 4.1. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 1000$Hình 14: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 1000$ (2018). @quora.com
4.2. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 1500$Hình 15: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 1500$ (2018). @quora.com
4.3. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 1750$Hình 16: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 1750$ (2018). @quora.com
4.4. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 2000$Hình 17: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 2000$ (2018). @quora.com
4.5. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 2566$ (Chỉ Số GDP Bình Quân Đầu Người Của Việt Nam Năm 2018)Hình 18: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 2566$ (Chỉ số GDP bình quân đầu người của Việt Nam) (2018). @quora.com
4.6. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 3103$ (Chỉ Số GDP Bình Quân Đầu Người Của Philippines Năm 2018)Hình 19: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 3103$ (Chỉ số GDP bình quân đầu người của Philippines) (2018). @quora.com
4.7. Các Khu Vực Sản Xuất Dưới 4000$Hình 20: Biểu đồ so sánh giữa các khu vực sản xuất thấp hơn 4000$ (2018). @quora.com
4.8. Biểu Đồ Tổng QuanTôi sẽ thêm các khu vực cuối cùng của mỗi nước vào biểu đồ phía dưới để có cái nhìn cận cảnh hơn. Một điều đáng chú ý tới là sự bất cân xứng giữa các khu vực Philippines còn lại so với Metro Manila. Việt Nam cũng có vấn đề tương tự giữa Tp.HCM và 3 khu vực liền kề còn lại; tất nhiên ít nhất 3 khu vực khác vẫn chưa tới mức thấp hơn Tp.HCM một nửa. Hình 21: Biểu đồ tổng quan GRDP bình quân đầu người từng khu vực của Philippines (2018). @quora.com Hình 22: Biểu đồ tổng quan GRDP bình quân đầu người từng khu vực của Việt Nam (2018). @quora.com 4.9. Đồ Thị ChồngCó thể bạn vẫn sẽ thắc mắc liệu GRDP tuyệt đối của Metro Manila có lấn áp các điểm mạnh của Việt Nam về ở cả hai phía biểu đồ không (khu vực nghèo nhất và khu vực giàu nhất) (Note: Khúc này tôi hơi lú các bác ạ). Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta chồng hai biểu đồ trên thành một? Hình 23: Biểu đồ chồng so sánh GRDP bình quân đầu người từng khu vực giữa 2 nước (2018). @quora.com
Hình 24: Bảng diện tích chồng lấn của Việt Nam và Philippines (2018). @quora.com
Bạn có thể đang thắc mắc tại sao tôi lại vùi dập sự cống hiến của Metro Manila như vậy? Sau tất cả, nó vẫn là một phần của Philippines và nên được bao gồm vào; cho dù nó có bóp méo thống kê quốc gia đi chăng nữa. Theo lý thuyết, nếu người dân ở Metro Manila giàu có hơn một cách đáng kể so với phần còn lại của Philippines thì ấn tượng về việc người Philippines giàu có hơn, ít nhất là tại khu vực đó là một điều chính xác. Đây là khi mà cách dùng GDP bình quân đầu người dần mất tác dụng, thậm chí là GRDP trong trường hợp này.
GRDP bình quân đầu người hoàn toàn không giúp ích gì cho việc thể hiện tình hình thực tế về dân số, đặc biệt là ở hai quốc gia có mức phát triển tương tự nhau. Giá như có một dữ liệu nào tốt hơn để chúng ta sử dụng… 5. Thu nhập bình quân đầu người theo vùngMột tin tốt lành là cả hai quốc gia đều có những thông tin về thu nhập trung bình mỗi tháng của người dân tại các khu vực khác nhau. Ở đây, tôi muốn lưu ý một vài điểm về việc tôi sẽ trình bày dữ liệu như thế nào. Lần này tôi sẽ sử dụng 17 khu vực hành chính chính thức của Philippines, nhưng chỉ có 6 khu vực của Việt Nam vì đây là các khu vực chính thức được phân bổ trong bản thống kê của họ. May mắn là Việt Nam có ghi lại dữ liệu về thu nhập bình quân đầu người nên không có các bước tính toán thủ công khác ngoại trừ việc chuyển đổi VND thành USD. Còn với Philippines, họ đã thổi phồng các con số lên bằng cách ghi lại thu nhập bình quân hằng năm của một hộ gia đình. Nên tôi đã phải chuyển các con số này thành thu nhập bình quân đầu người một cách thủ công, bằng cách dùng số liệu tổng các hộ gia đình (được thống kê bởi PSA) theo khu vực và chuyển nó thành USD. Đây là số liệu cho hai quốc gia: Hình 25: Bảng dữ liệu thu nhập thực tế bình quân đầu người từng khu vực cả hai nước. @quora.com Trước khi tôi bắt đầu so sánh giữa hai quốc gia, hãy so sánh trước sự khác biệt giữa thu nhập thực tế bình quân đầu người khác như thế nào so với GRDP bình quân đầu người của mỗi quốc gia. Nó là sự khác biệt khổng lồ Hình 26: Bảng dữ liệu so sánh sự khác biệt giữa thu nhập thực tế bình quân đầu người với GRDP bình quân đầu người từng khu vực cả hai nước. @quora.com
Hãy kết hợp các bảng dữ liệu để có cái nhìn trực tiếp hơn: Hình 27: Bảng dữ liệu so sánh thu nhập thực tế bình quân đầu người từng vùng cả hai nước. @quora.com
Nhưng khoan đã, tôi vẫn chưa chém xong. Tôi đã xếp loại các khu vực theo cùng một tiêu chí. Nhưng tôi vẫn chưa tính đến tỉ lệ dân số của họ! Liệu nó có thay đối kết quả? Tôi sẽ dùng cách tiếp cận tương tự như việc thống kê GRDP bình quân đầu người; ngoại trừ việc dùng biểu đồ tròn cho lần này. Lưu ý rằng đây chỉ là sự khái quát hoá. 5.1. Tầng Thu Nhập Đầu TiênHình 28: Biểu đồ dữ liệu dân số có thu nhập bình quân đầu người dưới 1250$ cả hai nước (%). @quora.com
5.2. Tầng Thu Nhập Thứ HaiHình 29: Biểu đồ dữ liệu dân số có thu nhập bình quân đầu người dưới 1500$ cả hai nước (%). @quora.com
5.3. Tầng Thu Nhập Thứ BaHình 30: Biểu đồ dữ liệu dân số có thu nhập bình quân đầu người dưới 1600$ cả hai nước (%). @quora.com
5.4. Tầng Thu Nhập Thứ TưHình 31: Biểu đồ dữ liệu dân số có thu nhập bình quân đầu người dưới 2000$ cả hai nước (%). @quora.com
5.5. Tầng Thu Nhập Thứ NămHình 32: Biểu đồ dữ liệu dân số có thu nhập bình quân đầu người dưới 2400$ cả hai nước (%). @quora.com
5.6. Tầng Thu Nhập Cuối CùngHình 33: Biểu đồ dữ liệu dân số có thu nhập bình quân đầu người dưới 2400$ cả hai nước (%) thêm vào các khu vực vượt 2400$. @quora.com
6. Nguồn bài viếtBài đăng của Khủng Long Tập Sự đăng trên group Maybe You Missed This F***king News vào lúc 08:05 – 18/08/2020. Philippines và Việt Nam ai giàu hơn?Năm 2019, GDP bình quân của Philippines đạt khoảng 3.512 USD còn Việt Nam đạt khoảng 3.398 USD. Tuy nhiên, đến năm 2020, GDP bình quân của Việt Nam đã vượt qua Philippines. Năm 2022, GDP bình quân của Việt Nam đạt khoảng 4.164 USD, còn của Philippines đạt khoảng 3.499 USD. Kinh tế Việt Nam 2024 đứng thứ mấy thế giới?Hiện nằm ở vị trí 34 (năm 2023), Việt Nam sẽ lên một hạng, 33 (2024), và tiếp tục lên nhanh, đạt thứ tự 24 sau một thập niên nữa (2033) để trở thành nền kinh tế thứ 21 thế giới vào năm 2038. Nền kinh tế Philippines đứng thứ mấy?Kinh tế Philippines là một nền kinh tế thị trường, tổng GDP xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau Indonesia và Thái Lan và đứng hạng 32 toàn cầu theo GDP danh nghĩa năm 2020. Philippines được coi là một trong những con Hổ mới châu Á cùng với Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan. Việt Nam và Thái Lan ai giàu hơn?Cụ thể, năm 2022, quy mô GDP của Việt Nam đạt khoảng 406,45 tỷ USD và quy mô GDP của Thái Lan đạt khoảng 536,16 tỷ USD. Theo đó, GDP của Thái Lan gấp khoảng 1,32 lần GDP của Việt Nam. |