So sánh nhà nước với thị tộc bộ lạc

+ Đảng giới thiệu để bầu ra cán bộ Đảng vào những cơ quan nhà nước, bồi dưỡng đào tạo để bổ nhiệm chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước.

+ Pháp luật ghi nhận các tổ chức thích hợp của Đảng trong cơ quan nhà nước để thực sự đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng như chi bộ, Đảng bộ…

+ Bảo đảm sự thể chế hóa đường lối của Đảng bằng Pháp luật.

+ Bảo đảm sự kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của cơ quan nhà nước.

– Để thực hiện vai trò của mình, Đảng cộng sản không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững manh, kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới của đất nước.

  1. Nguyên tắc tập trung dân chủ.

– Để khắc phục sự tùy tiện và lộng quyền của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN cần áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ.

– Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định trong Điều 6 Hiến pháp: Quốc hội, HĐND và các cơ quan khác của nhà nước đều phải tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thể hiện:

+ Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.

+ Sự phục tùng của cấp dưới với cấp.

+ Quyền lực nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương.

+ Phân cấp quản lý.

+ Phụ thuộc 2 chiều cơ quan hành chính nhà nước địa phương.

  1. Nguyên tắc pháp chế XHCN.

– Đảm bảo sự họat động bằng định hướng đúng đắn của bộ máy nhà nước, phát huy hiệu quả, tăng cường hiệu lực của cơ quan quản lý nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội cần áp dụng nguyên tắc pháp chế.

– Nguyên tắc này được quy định tại Điều 12: nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.

– Nội dung:

+ Việc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước phải tiến hành theo pháp luật và trên cơ sở pháp luật.

+ Mọi cán bộ, nhân viên phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình.

+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và sử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.

3. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.

3.1. Đổi mới lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội.

– Nâng cao chất lượng đại biểu QH, quy định ứng cử, bầu cử đại biểu QH trên cơ sở phát huy dân chủ, tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách.

– Đổi mới công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp theo hướng xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, khoa học,khách quan, công bằng và nhân đạo, bãi bỏ quy định pháp luật đã lạc hậu, khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

– Làm tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định phân bổ ngân sách, quản lý việc sử dụng vốn và tài sản nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao.

3.2 Cải cách nền hành chính Quốc gia.

  1. Cải cách thể chế hành chính.

– Hòan thành về cơ bản và vận hành thông suốt, hiệu quả thiết chế kiến trúc thượng tầng, trước hết bãi bỏ những quy định mang tính chất quan liêu, cửa quyền, gây khó khăn và sách nhiễu nhân dân, cản trở sự phát triển xã hội.

– Hòan thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo hoạt động tối đa nguồn lực từ các thành phần kinh tế.

– Đổi mới phương thức xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan, coi trọng việc sử dụng chuyên gia liên ngành, dành vai trò quan trọng cho tiếng nói doanh nghiệp và nhân dân, tăng cường công tác chỉ đạo, nâng cao ý thức kỷ luật trong thực hiện pháp luật.

  1. Đẩy mạnh công cuộc cải cách bộ máy hành chính.

– Đổi mới chức năng và cải cách phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng Chính phủ thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Chính phủ và cơ quan hành chính không trực tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân biệt chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh với chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.

– Quy định nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các bộ theo hướng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.

– Phân công, phân cấp hợp lý, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, kết hợp quản lý ngành với quản lý lãnh thổ.

– Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ để đảm bảo không chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn chậm trễ trong giải quyết các khiếu kiện của nhân dân. Tăng cương vai trò Tòa hành chính trong giải quyết khiếu kiện hành chính.

– Tách cơ quan hành chính công quyền ra khỏi tổ chức sự nghiệp, khuyến khích hoạt động không vì lợi nhuận, tạo điều kiện để tổ chức thực hiện một số dịch vụ công dưới sự giám sát của cộng đồng.

– Hiện đại hóa công tác hành chính, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin, kiện toàn bộ máy hành chính theo hướng tinh giảm biên chế, có cơ chế giải quyết thỏa đáng số người dôi ra.

  1. Nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ công chức.

– Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức với chương trình và nội dung sát hợp, chú trọng đội ngũ cán bộ phường, xã.

– Thực hiện nghiêm chỉnh quy chế tuyển dụng, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu… thanh lọc những kẻ tham nhũng trong cơ quan nhà nước, chuyển đổi công tác cán bộ công chức không đủ năng lực.

– Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân được tiếp xúc với cơ quan công quyền.

3.3. Cải cách tư pháp.

– Viện kiểm sát làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

– Tòa án: kiện tòan tổ chức hệ thống tòa án, phân định thẩm quyền tòa án các cấp một cách hợp lý, nâng cao số lượng và chất lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Thực hiện tốt nguyên tắc xét xử công khai, khách quan, giản tiện và hiệu quả.

– Cơ quan điều tra và Thi hành án: kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra và thi hành án theo nguyên tắc gọn , đổi mới; Các bản án có hiệu lực pháp luật phải được thực hiện.

– Kiện toàn tổ chức và quy chế hoạt động của các đoàn Luật sư, Công ty luật.

Cải cách tư pháp theo định hướng đổi mới công tác bắt, giam giữ, điều tra, khởi tố, xét xử, thi hành án đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

3.4 Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng.

– Tăng cường tổ chức và đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng trong cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị, cơ quan Đảng đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, chống lạm dụng chức quyền làm giàu bất chính.

– Hoàn thiện quản điểm về cơ chế, chính sách Đảng và nhà nước trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, quỹ của tổ chức, đoàn thể, quỹ do nhân dân đóng góp hoặc do nước ngoài tài trợ. Liên tục thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm kê tài sản nhà nước và các quỹ trên.

– Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và mọi công dân có trách nhiệm phát hiện và tố cáo hành vi tham nhũng, có biện pháp bảo vệ và khen thưởng những người phát hiện và tố cáo.

– Quy định trách nhiệm hình sự, trách nhiệm kỷ luật với cán bộ công chức có hành vi tham nhũng, lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản nhà nước.

– Nâng cao đời sống người hưởng lương bằng cách cải cách chế độ tiền lương.

– Bồi dưỡng, giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cán bộ công nhân viên nhà nước.

– Cụ thể và chi tiết hóa điều cấm đối với cán bội công chức, đặc biệt cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt. Những cán bộ đứng đầu cơ quan quản lý, lãnh đạo các cấp,các ngành, doanh nghiệp nhà nước phải kê khai tài sản cá nhân và gia đình. Xử lý nghiêm minh những người có tài sản có nguồn gốc bất minh.

– Xem xét trách nhiệm hình sự và biện pháp kỷ luật với những cán bộ lãnh đạo cơ quan có hành vi tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.

Câu 7: Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp.

  1. Hiến pháp 1946.

* Hoàn cảnh: Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, lật đổ chế độ thực dân giành độc lập dân tộc, thủ tiêu chế độ quân chủ lập hiến, lập nên nền cộng hòa.

Hiến pháp 1946 được Quốc hội lập hiến (bầu ra ngày 06/01/ 1946) thông qua kỳ họp thứ 2 (tháng 11/ 1946). Hiến pháp xây dựng nhà nước theo mô hình dân chủ nhân dân- mô hình cơ chế nhà nước thuộc phạm trù XHCN( ở cấp độ thấp).

1. ở trung ương BMNN gồm: Nghị viện nhân dân, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao.

– Nghị viện nhân dân (thực chất là Quốc hội do hoàn cảnh kháng chiến Nghị viện nhân dân đã không được thành lập mà Quốc hội lập hiến đã thay thế Nghị viện nhân dân).

+ Là cơ quan có quyền lực cao nhất, do nhân dân trực tiếp bầu ra, có quyền giải quyết những vấn đề chung quan trọng của đất nước, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.

+ Lập ra Chính phủ, thông qua ban thường vụ để kiểm soát và phê bình Chính phủ.

– Chính phủ: là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc, do Chủ tịch nước đứng đầu.

+ Gồm: Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước, Nội các.(Nội các gồm: Thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng, có thể có phó thủ tướng).

+ Chính phủ chưa hoàn toàn là cơ quan chấp hành của Nghị viện, ngược lại còn có thể (qua vai trò của Chủ tịch nước) phủ quyết luật của Nghị viện (Điều 31).

+ Nội các mất tín nhiệm phải từ chức (Điều 54).

– Tòa án nhân dân tối cao: + Đứng đầu hệ thống cơ quan tư pháp gồm Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.

+ Thẩm phán do chính phủ bổ nhiệm.

+ Chưa có Viện Kiểm sát mà trong thành phần của Tòa án ngoài thẩm phán xét xử còn có thẩm phán buộc tội (công tố).

2. Chính quyền địa phương: Gồm Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.

Riêng ở cấp bộ (Bắc- Trung- Nam) và huyện chỉ có Uỷ ban hành chính. HĐND do nhân dân bầu ra, Uỷ ban hành chính do HĐND bầu ra. Cấp nào không có HĐND thì do các HĐND cấp dưới bầu ra. HĐND quyết nghị các vấn đề thuộc địa phương mình. Uỷ ban hành chính có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên và các Nghị quyết của HĐND, chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.

II. Hiến pháp 1959.

* Hoàn cảnh: Miền bắc chuyển sang chế độ XHCN. Bộ máy nhà nước được xây dựng lại theo hướng bộ máy kiểu XHCN mà đặc trưng là vận dụng nguyên tắc tập quyền XHCN một cách mạnh mẽ.

1. ở trung ương có: Quốc hội, chủ tịch nước, Hội động chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao.

– Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

– Chủ tịch nước không còn đồng thời là người đứng đầu nhà nước, tuy còn nghiêng nhiều về chính phủ.

– Hội đồng chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

– Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử duy nhất.

– Viện kiểm sát được Quốc hội lập ra để thực hiện quyền giám sát (kiểm sát việc thực hiện theo pháp luật) đối với các cơ quan nhà nước từ Bộ trở xuống, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật để pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất và thực hiện quyền công tố.

Các cơ quan đều được Quốc Hội thành lập và chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

2. Chính quyền địa phương: ở tất cả các cấp hành chính (tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, khu phố, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, xã, thị trấn).

– HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

– Uỷ ban hành là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

3. Tòa án và Viện kiểm sát: Tổ chức theo lãnh thổ.

-Tòa án:

+ Gồm: Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân địa phương (tỉnh, huyện) và tòa án quân sự.

+ Tòa án nhân nhân tối cao và tòa án địa phương do Quốc hội và HĐND bầu và chịu trách nhiệm trước cơ quan đó.

– Viện kiểm sát:

+ Gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân địa phương (tỉnh, huyện) và viện kiểm sát quân sự.

+ Tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành, không chịu trách nhiệm trước HĐND, chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội.

Về cơ bản, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959 tuân theo mô hình XHCN song vẫn còn yếu tố dân chủ nhân dân thể hiện trong chế định chủ tịch nước và Hội đồng chính phủ. Chủ tịch nước chọn bầu trong nhân dân (không bầu trong Quốc hội) có vai trò phối hợp với các cơ quan nhà nước. Hội đồng chính phủ tuy xác định là cơ quan chất hành của Quốc hội song vẫn là cơ quan hành chính cao nhất của nhân dân (không phải của Quốc hội như sau này).

III. Hiến pháp 1980.

* Hoàn cảnh: Nhà nước được thiết kế theo đúng mô hình Bộ máy nhà nước XHCN tình hình lúc bấy giờ ở các nước XHCN (Liên Xô, các nước Đông âu, Trung Quốc). Nguyên tắc tập quyền XHCN được vận dụng một cách triệt để.

1. Trung ương.

– Quốc hội được xây dựng một cách đầy đủ hơn về mặt tổ chức cũng như thẩm quyền theo hướng cơ quan có toàn quyền”Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”.

– Chế định chủ tịch nước cá nhân được thiết kế lại sao cho gắn bó với Quốc hội.

– Hội đồng nhà nước được thiết lập là cơ quan cáo nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước CHXH CN VN.

– Hội đồng chính phủ đổi thành Hội đồng Bộ trưởng với tính chất là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hội đồng bộ trưởng do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra từ chủ tịch đến thành viên, chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Hội đồng bộ trưởng- cơ quan trước đây vốn có nhiều độc lập đã lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quyền lực( về mặt lý thuyết).

2. Chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và UBND ở tất cả các cấp.

-Thay đổi quan trọng: Tăng cường vai trò HĐND ở mỗi cấp: quyết định vấn đề xây dựng địa phương; bầu ra UBND.

Trong các quyền này, HĐND hầu như toàn quyền. Vai trò cơ quan hành chính cấp trên không rõ rệt. Thật ra là có việc phê chuẩn đối với một số quyết định quan trọng như Nghị quyết về kế hoạch- ngân sách về bầu UBND song chỉ mang tính hình thức. Cơ quan hành chính cấp trên không có quyền điều động, cách chức, miễn nhiệm đối với chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp dưới, kể cả Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng với chủ tịch UBND cấp tỉnh cũng như vậy. Cách tổ chức này đã hạn chế tính chỉ đạo thống nhất trong hệ thống hành chính nhà nước- Sau được sửa đổi.

3. Tòa án- Viện kiểm sát: Về cơ bản được giữ nguyên như trước.

– Quốc hội thànhlập Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

– HĐND tỉnh, huyện thành lập Tòa án nhân dân tương ứng.

– Viện kiểm sát nhân dân các cấp tổ chức theo nguyên tắc thống nhất từ trên.

IV. Hiến pháp 1992.

* Hiến pháp 1992 xây dựng lại Bộ máy nhà nước trên tinh thần đổi mới. Nguyên tắc tập quyền XHCN được nhận thức lại và vận dụng hợp lý hơn.

Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất ( thống nhất vào Quốc hội) chứ không phân chia các quyền. Mặt khác, cần thiết phải có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chứ không chỉ tập trung vào Quốc hôi còn các cơ quan khác lại không được phân định rõ ràng làm hạn chế vài trò và hiệu lực của chúng.

Bộ máy nhà nước xây dựng lại theo hướng vừa bảo đảm thống nhất quyền lực vừa phân công phân nhiệm rành mạch.

– Quốc hội vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền. Các cơ quan khác lập ra phải chịu sự giám sát, chịu trách nhiêm trước Quốc hội. Đây là các bảo đảm mặt thống nhất quyền lực.

– Sự phân công phối hợp thể hiện ở chỗ quy định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan một cách rõ ràng.

+ Quốc hội: Tập trung vào lĩnh vực lập pháp và giám sát. Đương nhiên vẫn có quyền quyết định các vấn đề cụ thể (hành pháp) song chỉ những vấn đề quan trọng.

+ Chính phủ: là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực, song là cơ quan hành chính(quản lý) cao nhất, tức độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính.

+ Tòa án- Viện kiểm sát: thực hiện chứcnăng xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật được tăng cường tính chuyên nghiệp( bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên).

+ Chủ tịch nước: phân định rõ chức trách giữa chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

– Chính quyền địa phương: Quy định rõ hơn mối liên hệ giữa HĐND & UBND với cơ quan nhà nước cấp trên.

+ HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương vừa chịu sự hướng dẫn và giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và sự hướng dẫn, kiểm tra của Chính phủ.

+ UBND chịu trách nhiệm trước HĐND vừa chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính cấp trên. Đặc biệt xác định rõ thẩm quyền của cấp trên trong việc điều hành Bộ máy hành chính. Chủ tịch UBND cấp trên và cao nhất là Thủ tướng có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch,phó chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp.

– Trong tổ chức chính phủ và UBND phân định rõ tính tập thể và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.

– Xác định rõ quyền giám sát của HĐND với Tòa án và Viện kiểm sát cùng cấp.

Câu 8: Hệ thống chính trị Việt Nam.

  1. Khái niệm hệ thống chính trị và đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam.

1.Khái niệm HTCT:

– HTCT XHCN là toàn bộ các thiết chế chính trị gắn bó hữu cơ, tác động lẫn nhau cùng thực hiện quyền lực của nhân dân lao động.

– ở Việt Nam, HTCT mới ra đời sau Cách mạng Tháng Tám với sự hình thành nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Cùng với sự phát triển của chế độ mới, HTCT nước ta ngày nay càng phát triển và hiện nay là HTCT XHCN. Mục tiêu là xây dựng một xã hội phồn vinh, dân chủ, bình đẳng, không có áp bức bóc lột.

2. Đặc điểm.

  1. Là một hệ thống tổ chức chặt chẽ, khoa học trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức. Vấn đề đó được thể hiện rõ trong pháp luật nước ta, đặc biệt là Hiến pháp 1992. Tính tổ chức cao của HTCT nước ta được đảm bảo bởi các nguyên tắc chỉ đạo:+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

+ Sự lãnh đạo của Đảng.

+ Tập trung dân chủ.

+ Pháp chế XHCN.

  1. Hệ thống chính trị Việt Nam có sự thống nhất về lợi ích lâu dài và mục tiêu hoạt động. Tính thống nhất của HTCT XHCN VN bắt nguồn từ sự thống nhất về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội nước ta. Các thiết chế của HTCT nước ta như Đảng, nhà nước, tổ chức xã hội tuy có vị trí ,chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.
  1. HTCT XHCN VN có tính dân chủ. Dân chủ là mục tiêu, động lực, phương tiện để tổ chức vận hành HTCT.

– Các thiết chế cấu thành HTCT đều là các thiết chế của nền dân chủ XHCN. Đó là những tổ chức được thành lập ra nhằm thực hiện và đảm bảo các lợi ích, nhu cầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.

– Các tổ chức trên được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, vừa đảm bảo tập trung thống nhất vừa tạo điều kiện cho các bộ phận của tổ chức phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giải quyết các công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

– Quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT nước ta là quanhệ bình đẳng, mọi vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ đa dạng phức tạp đó được giải quyết theo một cơ chế dân chủ.

* Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, Đảng và nhà nước chú trọng tiến hành đổi mới mạnh về kinh tế kết hợp với sự đổi mới từng bước vững chắc HTCT. Vấn đề đổi mới HTCT đòi hỏi phải: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; cải cách và nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; kiện toàn các tổ chức xã hội.

II. Cơ cấu HTCT:

1. Đảng cộng sản Việt Nam.

– ĐCSVN, đội tiên phong giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội (Điều 4 Hiến pháp 1992).

– Trong HTCT VN, ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng được xác lập dựa trên những đặc điểm sau:

+ ĐCS VN bao gồm những người được trang bị thế giới quan của Chủ nghĩa Mác- Lênin, trên cơ sở học thuyết Mác- Lênin và sự phân tích một cách khách quan điều kiện XHCN, ĐCSVN đã đề ra đường lối, chính sách và phương hướng phát triển.

+ ĐCSVNđược chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và là bộ phận quan trọng của kho tàng tri thức lý luận của Đảng. Tác phong và nhân cách chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng kế thừa và phát huy.

+ ĐCS VN có khả năng tổ chức to lớn. Điều này đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng có khả năng tập hợp mọi tầng lớp nhân dân lao động trong việc đấu tranh cách mạng, thực hiện mục tiêu cách mạng, thực hiện đường lối chính sách của mình.

+ ĐCS VN luôn ủng hộ phong trào đấu tranh vì hòa bình, đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào công nhân trên thế giới nên uy tín của Đảng rất to lớn. Đảng nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

* Mối quan hệ Đảng và nhà nước.

– Trong mối quan hệ Đảng- nhà nước, Đảng lãnh đạo nhà nước dưới các hình thức sau:

+ Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, phương hướng phát triển cho từng giai đoạn.

+ Đảng đào tạo, bồi dưỡng đảng viên và những người ngòai Đảng có phẩm chất, năng lực để giới thiệu vào giữ các chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước thông qua cơ chế bầu cử, bổ nhiệm.

+ Đảng kiểm tra công tác tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng, kiểm tra họat động của các cơ quan nhà nước trên cơ sở đó phát hiện những sai lầm, tổng kết rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hòan thiện đường lối, chính sách của mình.

+ Đảng giáo dục đảng viên gương mẫu trong thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.

Phương pháp lãnh đạo của Đảng là giáo dục, thuyết phục. Đảng lãnh đạo chính trị mang tính chất định hướng.

– Trong quan hệ với Đảng, nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng bằng pháp luật và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách trong thực tiễn. Pháp luật của nhà nước cũng là một phương tiện để Đảng kiểm tra tính đúng đắn trong đường lối, chính sách của mình. Về phía mình, dựa trên đường lối, chính sách của Đảng nhà nước xây dựng pháp luật. Mọi đường lối, chính sách của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.

2. Nhà nước.

Nhà nước XHCN có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, đứng ở vị trí trung tâm của HTCT vì nó có một số điều kiện sau:

– Nhà nước XHCN là đại diện chính thức cho mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều đó tạo cho nhà nước XHCN một cơ sở xã hội rộng rãi có thể triển khai nhanh chóng và thực hiện những quyết định, chính sách của mình.

– Nhà nước XHCN là chủ thể của quyền lực chính trị, có một bộ máy đặc biệt chuyên làm chức năng quản lý. Hệ thống lực lượng vũ trang, nhà tù, tòa án là những phương tiện mà qua đó nhà nước XHCN có thể duy trì trật tự và ổn định xã hội. Chức năng quản lý của nhà nước bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

– Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng đảm bảo pháp luật được thực hiện trong đời sống. Nhờ có pháp luật , mọi chủ trương, chính sách của nhà nước được triển khai rộng rãi và thống nhất trên quy mô tòan xã hội.

– Nhà nước là tổ chức duy nhất trong HTCT có chủ quyền quốc gia. Đó là quyền tối cao của nhà nước trong quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Nhà nước là tổ chức duy nhất của HTCT được coi là chủ thể của công pháp quốc tế.

– Nhà nước là chủ sở hữu tối cao đối với tư liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Thông qua việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân thông qua chính sách tài chính, tín dụng, chính sách thuế… Nhà nước nắm trong tay nguồn vật chất tài chính to lớn, nó không chỉ đảm bảo cho sự họat động của nhà nước mà còn tạo điều kiện vật chất cho các tổ chức xã hội hoạt động.

Những ưu thế trên đã quy định vị trí trung tâm của nhà nước trong HTCT. Vị trí trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị xác định tầm quan trọng của cải cách nhà nước trong đổi mới HTCT. Hiện nay chúng ta chủ trương cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là yêu cầu khách quan, là con đường đưa đất nước ta trở thành một đất nước văn minh, quản lý tốt đời sống xã hội.

3. Tổ chức chính trị xã hội.

– ở nước ta nhân dân lao động thực hiện quyền lực của mình không chỉ bằng nhà nước mà còn thông qua các tổ chức xã hội. Với tư cách là một bộ phận cấu thành HTCT VN, các tổ chức xã hội được gọi là tổ chức chính trị xã hội và có các đặc điểm sau:

+ Được thànhlập một cách tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản nhằm thỏa mãn lợi ích các thành viên.

+ Các quyết định của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với nội bộ tổ chức đó.

+ Tài sản của tổ chức chính trị xã hội hình thành bằng sự đóng góp của thành viên, bằng tài trợ của các tổ chức quốc tế, bằng hoạt động sản xuất kinh doanh và một phần là của nhà nước.

+ Hoạt động bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, bằng biện pháp tác động xã hội.

Đó là đặc điểm chung của các tổ chức chính trị xã hội, từng tổ chức cụ thể lại có những đặc điểm riêng.

– Tổ chức chính trị xã hội gồm:

+ Mặt trận tổ quốc Việt Nam: là liên minh chính trị của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, dân tộc và tôn giáo, nhiệm vụ của MTTQVN là củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, động viên nhân dân tích cực tham gia và quản lý nhà nước.

+ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam: là tổ chức của giai cấp công nhân và cán bộ viên chức nhà nước, bảo đảm đời sống vật chất của các thành viên và bảo vệ lợi ích của họ.

+ Đoàn TNCSHCM là tổ chức rèn luyện và bồi dưỡng thế hệ trẻ, lực lượng xung kích trong lao động sản xuất và nghiên cứu khoa học.

+ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: là tổ chức của phụ nữ Việt Nam, có nhiệm vụ giáo dục thành viên hiểu rõ vai trò của họ đối với Tổ quốc, động viên họ nâng cao tinh thần phấn đấu vương lên trong mọi lĩnh vực xã hội.

+ Hội nông dân Việt Nam: là đại biểu của giai cấp nông dân , có nhiệm vụ động viên nông dân hăng hái lao động sản xuất và tham gia xây dựng, quản lý nhà nước.

– Mối quan hệ nhà nước và tổ chức xã hội.

+ Nhà nước quy định về mặt pháp lý hình thức để các tổ chức chính trị xã hội tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức chính trị xã hội hoạt động.

+ Các tổ chức chính trị xã hội là chỗ dựa của nhà nước, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối nhân dân với nhà nước.

+ Trong mối quan hệ nhà nước- tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị xã hội tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước bằng cách tham gia trong tổ chức bầu cử cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, đấu tranh chống hành vi vi phạm pháp luật và hành vi tham nhũng,hối lộ… trong bộ máy nhà nước thông qua kiểm tra mang tính xã hội đối với hoạt động bộ máy nhà nước.

Câu 10: Các chức năng cơ bản của nước CHXHCN VN.

Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động của nhà nước nhằm thực hiện nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.

  1. Chức năng đối nội. 1. Chức năng kinh tế.
  2. Trước nhu cầu của cơ chế kinh tế mới, chức năng kinh tế của nhà nước ta nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau: – Tạo lập, đảm bảo sự ổn định và bầu không khí lành mạnh để giải phóng tất cả các tiềm năng phát triển kinh tế đất nước, khắc phục hậu quả do cuộc khủng hoảng của cơ chế kinh tế cũ và kiên quyết chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. – Xây dựng và đảm bảo các điều kiện chính trị, xã hội, pháp luật, tổ chức cần thiết cho sự bình đẳng và khả năng phát triển có hiệu quả của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. – Củng cố và phát triển các hình thức sở hữu với phương châm đảm bảo vai trò chủ đạo của sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể, tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. – Tạo lập các tiền đề cần thiết và đảm bảo các điều kiện thuận lợi để các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần vươn tới thị trường nước ngoài, tham gia có hiệu quả vào sự hợp tác kinh tế quốc tế. * Để thực hiện nhiệm vụ trên, nhà nước đổi mới phương thức chỉ đạo và điều hành đối với hoạt động kinh tế theo hướng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Hoạt động điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế của nhà nước, một mặt tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế khả năng độc lập tự giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự chủ để nhà nước thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát tòan bộ hoạt động kinh tế của đất nước trên cơ sở đó có giải pháp cụ thể, hợp lý giải quyết mọi biến động của nền kinh tế.
  3. Nội dung: – Xây dựng và thông qua các chương trình phát triển kinh tế ngắn hạn và dài hạn, trên cơ sở đó định hướng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển trong các điều kiện thị trường. – Xây dựng, thông qua, tổ chức thực hiện một chính sách tài chính, tiền tệ hợp lý, đảm bảo giá trị đồng tiền quốc gia, góp phần ổn định thị trường vốn. – Xây dựng và thực hiện một chính sách đầu tư hợp lý, xác định các lĩnh vực được ưu tiên đầu tư, khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế quốc dân thông qua chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng… – Nhà nước áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước, chống độc quyền, hàng giả, buôn lậu qua biên giới. – Phương pháp tác động của nhà nước đối với nền kinh tế không còn là các biện pháp hành chính mà chủ yếu là biện pháp đòn bẩy kinh tế và được thực hiện bằng pháp luật. 2. Chức năng xã hội. – Thể hiện bản chất nhà nước- giải quyết vấn đề xã hội. Việc giải quyết vấn đề xã hội góp phần xây dựng xã hội dân chủ, văn minh, nhân đạo vì các giá trị cao cả của con người. – Trong điều kiện hiện nay, với cơ chế thị trường việc giải quyết vấn đề xã hội nảy sinh từ cơ chế này là đòi hỏi bức thiết. Chức năng xã hội của nhà nước càng quan trọng. – Những vấn đề xã hội đòi hỏi giải quyết trong mối quan hệ giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với tính nhân đạo của nhà nước, là trách nhiệm của mọi cơ cấu xã hội trong đó vai trò cơ bản thuộc nhà nước. – Nội dung: + Nhà nước xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. + Nhà nước xác định khoa học công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nước ta. Nhà nước xây dựng và thực hiện một chính sách khoa học và công nghệ quốc gia. Xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ các ngànhkhoa học, nhà nước đầu tư và khuyến khích tài trợ cho khoa học. + Nhà nước đầu tư phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khỏe của nhân dân. + Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân có năng lực lao động đều có quyền có việc làm, khuyến khích các thành phần đơn vị kinh tế mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thu hút ngày càng nhiều lao động bằng chính sách tài chính, kinh tế và pháp luật lao động. Nhà nước quan tâm giải quyết vấn đề thất nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ những người thất nghiệp có việc làm, thực hiện đào tạo lại ngành nghề, phát triển dịch vụ, giới thiệu việc làm. + Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách thu nhập hợp lý bằng việc thực hiện chế độ thuế thu nhập nhằm huy động sự đóng góp của người có thu nhập cao vào quỹ phân phối lại nhằm tạo điều kiện giúp đỡ người có thu nhập thấp, những người có hoàn cảnh khó khăn, đói nghèo. + Nhà nước quan tâm giải quyết, giúp đỡ người về hưu, người già cô đơn đảm bảo họ có cuộc sống ổn định. + Nhà nước chăm lo giải quyết vấn đề trẻ mồ côi, lang thang, người tàn tật, các tệ nạn xã hội. * Việc thực hiện chức năng xã hội phát huy bản chất nhân đạo của nhà nước ta đồng thời kế thừa truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc, góp phần thiết lập xã hội nhân bản- xã hội vì con người. 3. Chức năng đảm bảo sự ổn định an ninh, chính trị, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, bảo vệ trật tự an tòan xã hội. – Trong sự phát triển của đất nước, nhà nước chú trọng áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm ổn định an ninh chính trị chống lại những hành vi phá hoại sự nghiệp đổi mới và âm mưu của kẻ thù gây an ninh chính trị, cản trở sự phát triển xã hội. + Nhà nước sử dụng sức mạnh bạo lực để ngăn ngừa, trấn áp hành vi gây mất ổn định an ninh chính trị. + Trấn áp mọi hoạt động của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng, lật đổ nhà nước XHCN. + Hoạt động trấn áp bằng sử dụng sức mạnh bạo lực của nhà nước để thực hiện trong những phạm vi, hình thức luật định. – Nhà nước ghi nhận quyền tự do dân chủ của công dân bằng pháp luật, bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện bằng các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội để công dân bảo vệ quyền tự do dân chủ của mình, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân. – Nhà nước duy trì trật tự an tòan xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN bằng cách: + Đổi mới và hòan thiện hệ thống pháp luật. + Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật, năng lực chuyên môn và phẩm chất cán bộ công chức trong cơ quan này để đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh. + Giáo dục và hướng dẫn mọi công dân đấu tranh những hành vi vi phạm pháp luật.

II. Chức năng đối ngoại: Hoạt độngđối ngoại của nhà nước là lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi, góp phần giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ trong nước. 1. Bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, ngăn ngừa mọi nguy cơ xâm lăng từ các quốc gia bên ngoài. – Để thực hiện nhiệm vụ này, nhà nước ta chăm lo xây dựng và củng cố khả năng quốc phòng của đất nước. + Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân. + Giáo dục quốc phòng và an ninh cho tòan dân. + Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội. + Xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp kinh tế quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, chiến sỹ, công nhân , nhân viên quốc phòng. + Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. 2. Thiết lập , củng cố và phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Hiện nay, nước ta thực hiện chính sách mở cửa, quan hệ với tất cả các nước, mở rộng quan hệ kinh tế chính trị, văn hóa theo nguyên tắc của pháp luật quốc tế. 3. Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì trật tự thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên tòan thế giới. Ngày nay nước ta là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, phong trào không liên kết và rất nhiều tổ chức trực thuộc Liên hợp quốc. Trong diễn đàn quốc tế và khu vực, nước ta luôn tỏ rõ thiện chí và nỗ lực hợp tác để góp phần giải quyết hòa bình nhiều vấn đề quốc tế. ảnh hưởng và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và tăng cường.

Phần II: Lý luận chung về pháp luật

Câu 11: Sự hình thành, bản chất, giá trị xã hội, các thuộc tính cơ bản của pháp luật.

1. Sự hình thành: – Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy chưa có pháp luật nhưng như mọi xã hội, xã hội cộng sản nguyên thủy cũng cần đến trật tự, ổn định để tồn tại và phát triển, từ đó xuất hiện những quy tắc xử sự chung. Đây chính là những quy tắc xã hội bao gồm tập quán và các tín điều tôn giáo. Tập quán xuất hiện một cách tự phát, dần dần được cộng đồng thị tộc, bộ lạc chấp nhận và trở thành quy tắc xử sự chung mang tính chất đạo đức và xã hội. Quy phạm xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thủy có đặc điểm: + Thể hiện ý chí phù hợp với lợi ích của tòan thể thị tộc, bộ lạc. + Chúng điều chỉnh cách xử sự của những con người liên kết với nhau theo tinh thần hợp tác, giúp đỡ. + Chúng được thực hiện một cách tự nguyện theo thói quen của từng thành viên thị tộc, bộ lạc. Tuy nhiên, vẫn có sự cưỡng chế trong trường hợp chúng bị vi phạm nhưng sự cưỡng chế không phải do một bộ máy đặc biệt của xã hội nguyên thủy thực hiện mà do toàn thị tộc tự tổ chức. – Các quy phạm này phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nguyên thủy- xã hội chưa có tư hữu và giai cấp. Khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giai cấp có lợi ích đối lập nhau. Các tập quán không còn phù hợp vì tập quán thể hiện ý chí chung và bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc. Tầng lớp có của luôn hướng hành vi của mọi người phù hợp với lợi ích của riêng họ. Lợi dụng địa vị xã hội, họ giữ các tập quán có lợi, vận dụng, biến đổi nội dung các tập quán sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị nhằm mục đích củng cố và bảo vệ một trật tự xã hội mà họ mong muốn. Bằng sự thừa nhận của nhà nước, các quy tắc tập quán đã bị biến đổi trở thành những quy tắc xử sự chung. Con đường thứ nhất hình thành pháp luật. – Mặt khác, những quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp mới phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội đặt ra yêu cầu phải có những quy tắc mới để điều chỉnh. Tổ chức quyền lực mới ra đời( nhà nước) đã tiến hành hoạt động xây dựng các quy tắc xử sự mới trong nhiều lĩnh vực. Hoạt động này lúc đầu còn đơn giản, nhiều quyết định của tòa án và cơ quan hành chính được coi là những quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc. Hệ thống pháp luật được hình thành dần dần cùng với việc thiết lập và hòan thiện bộ máy nhà nước. Nhà nước ban hành nhiều văn bản nhằm củng cố chế độ tư hữu và quy định đặc quyền của giai cấp thống trị trong xã hội. Con đường thứ 2 hình thành pháp luật. Xuất phát từ nguồn gốc trên, pháp luật không thể được mọi thành viên trong xã hội có giai cấp thực hiện một cách tự giác. Vì vậy, nhà nước có một bộ máy chuyên cưỡng chế, đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Quy tắc xử sự mới ra đời- quy tắc pháp luật- là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. 2. Bản chất. – Bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp của nó. Biểu hiện: + Pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Do nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất thành ý chí của nhà nước. ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. + Tính giai cấp còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, sự điều chỉnh pháp luật trước hết nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ giai cấp. Pháp luật chính là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật là công cụ thể hiện sự thống trị giai cấp. -Bản chất giai cấp của pháp luật luôn là vấn đề hàng đầu khi nghiên cứu pháp luật của một kiểu nhà nước. Sự biểu hiện tính giai cấp trong các kiểu pháp luật khác nhau không giống nhau. + Pháp luật chủ nô là pháp luật của giai cấp chủ nô, do giai cấp này đặt ra trước hết vì lợi ích của nó. Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền của giai cấp nô lệ. + Tính giai cấp của pháp luật tư sản thì không dễ nhận thấy. Trong pháp luật tư sản có nhiều quy định về quyền tự do, dân chủ, làm nhiều người lầm tưởng pháp luật tư sản là phápluật chung của xã hội, không mang tính giai cấp, do nhân dân xây dựng và vì lợi ích của nhân dân. Thực chất, pháp luật tư sản trước hết thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết phục vụ lợi ích giai cấp tư sản. + Trong những điều kiện lịch sử nhất định, rất có thể lợi ích của giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích chung của giai cấp khác, của cả xã hội. Ví dụ: trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lợi ích của giai cấp thống trị địa chủ phong kiến và triều đình pháp luật về cơ bản phù hợp với lợi ích của tòan dân tộc. Pháp luật ở những thời điểm lịch sử nhất định, người ta có thể tìm thấy nhiều quy định phù hợp với lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp trong xã hội. 3. Giá trị xã hội của pháp luật. -Bên cạnh tính giai cấp không thể coi nhẹ giá trị xã hội to lớn của pháp luật. Có thể nói rằng các quy phạm pháp luật là kết quả của sự” chọn lọc tự nhiên” trong xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày, cá nhân và tổ chức có quan hệ với nhau rất đa dạng và được thể hiện trong hành vi xử sự khác nhau. Xã hội thông qua nhà nước ghi nhận những cách xử sự hợp lý khách quan, được đa số đông chấp nhận, phù hợp với lợi ích của số đông trong xã hôi. Cách xử sự này được nhà nước thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật. Nói cách khác, những hành vi, cách xử sự phổ biến, trải qua bao biến cố xã hội, bỏ qua và vượt lên những yếu tố ngẫu nhiên, được khái quát hóa thành những quy phạm pháp luật mang tính ổn định và chuẩn mực. Dưới góc độ này quy phạm pháp luật mang tính quy luật vì nó phản ánh được chân lý khách quan, có thể coi quy phạm pháp luật là quy luật khách quan của xã hội, là chân lý khách quan. Khía cạnh này đồng thời thể hiện tính xã hội của pháp luật. – Mặt khác, giá trị xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ, một quy phạm pháp luật vừa là thước đo của hành vi con người, vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quá trình xã hội. * Ngày nay người ta còn thường nói đến tính dân tộc, tính mở… của pháp luật bên cạnh tính giai cấp, tính xã hội và giá trị xã hội của pháp luật. + Pháp luật mỗi nước muốn được người dân chấp nhận là của mình thì nó phải được xây dựng trên nền tảng dân tộc, thấm nhuần tính dân tộc. Nó phản ánh được những phong tục, tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý, trình độ văn minh văn hóa của dân tộc. + Nó cũng phải là hệ thống pháp luật mở, sẵn sàng tiếp nhận những thành tựu của nền văn minh văn hóa pháp lý của nhân loại để làm giàu cho mình. 4. Các thuộc tính cơ bản của pháp luật. – Thuộc tính của sự vật, hiện tượng: là những tính chất, dấu hiệu riêng có của sự vật, hiện tượng. – Thuộc tính của pháp luật: là những tính chất, dấu hiệu riêng biệt, đặc trưng của pháp luật. – Pháp luật có 3 thuộc tính:

  1. Tính quy phạm phổ biến: Quy phạm là tế bào của pháp luật. – Cũng như các quy phạm pháp luật, các quy phạm đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, các quy định có tính điều lệ đều có chứa những quy tắc xử sự chung. Nhưng khác với quy phạm trên, quy phạm pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Tính quy phạm phổ biến chính là cái để phân biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác. So với các quy phạm xã hội khác, pháp luật có tính bao quát hơn, rộng khắp hơn. Xét về mặt nguyên tắc, pháp luật có thể điều chỉnh một phạm vi quan hệ xã hội bất kỳ nào đó. Đây chính là ưu thế của pháp luật so với các vi phạm xã hội khác. – Các quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian. Việc áp dụng những quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc thời hạn đã hết. – Tính phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước”được đề lên thành luật”. Pháp luật làm cho ý chí này có tính chất chủ quyền duy nhất trong một quốc gia. Chính quyền lực chính trị đem lại cho pháp luật tính quy phạm phổ đặc biệt- tính quy phạm phổ biến.
  2. Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức. – Tính xác định về mặt hình thức thể hiện nội dung pháp luật trong những hệ thống nhất định. Điểm rõ nét nhất của pháp luật là ở chỗ nội dung của nó được xác định rõ ràng, chặt chẽ. Tính xác định rõ ràng, chặt chẽ, nhằm đảm bảo nguyên tắc”bất cứ ai được đặt vào những điều kiện ấy cũng không thể làm khác được”. – Nội dung của pháp luật phải được quy định rõ ràng, sáng sủa, chặt chẽ, khái quát trong các khoản của mọi điều luật, trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung. Nếu các quy phạm pháp luật quy định không đủ, không rõ, không chính xác sẽ tạo ra những kẽ hở cho sự chuyên quyền, lạm dụng, những hành vi vi phạm pháp luật như tham ô, lãng phí, tham nhũng, phá hoại, vi phạm nghiêm trọng pháp chế. Nội dung của pháp luật phải được biểu hiện bằng ngôn ngữ pháp luật rõ ràng, chính xác dưới hình thức nhất định của pháp luật. – 1 quy phạm pháp luật, 1 văn bản pháp luật có thể hiểu theo nghĩa này, cũng có thể hiểu theo nghĩa khác, trong cách viết có sử dụng những từ “vân vân” và các dấu (…) không thể gọi là 1 quy phạm, 1 văn bản có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức.
  3. Tính được đảm bảo bằng nhà nước. – Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhà nước đảm bảo thực hiện, điều đó có nghĩa là nhà nước đã trao cho các quy phạm pháp luật tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân, tức là pháp luật mới trở thành quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung. – Tùy theo mức độ khác nhau mà nhà nước áp dụng các biện pháp về tư tưởng, tổ chức, khuyến khích, kích thích… kể cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện đúng. Khi pháp luật thể hiện đầy đủ nguyện vọng, ý chí, lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội thì nó cũng được mọi người trong xã hội tôn trọng và tự giác thực hiện, khi đó không phải dùng biện pháp cưỡng chế của nhà nước. – Tính đảm bảo bằng nhà nước có thể được hiểu dưới 2 khía cạnh. + Khả năng tổ chức thực hiện của nhà nước bằng cả phương pháp thuyết phục và cưỡng chế. + Chính nhà nước đảm bảo cho tính hợp lý, uy tín của nội dung quy phạm pháp luật, nhờ đó nó có khả năng được thực hiện trong cuộc sống một cách thuận lợi. – Tính quyền lực nhà nước chính là yếu tố không thể thiếu bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện. Đây cũng là điều khác nhau căn bản giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.

Câu 12: Hình thức, chức năng, các mối liên hệ, nguồn của pháp luật.

  1. Hình thức của pháp luật. 1. Khái niệm hình thức của pháp luật. – Hình thức của pháp luật là khái niệm dùng để chỉ ranh giới tồn tại của pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội, là các hình thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, đồng thời đó cũng là phương thức tồn tai, dạng tồn tại thực tế của pháp luật. – Hình thức của pháp luật chỉ có giá trị khi nó có khả năng phản ánh nội dung và các dấu hiệu thuộc về bản chất của pháp luật, tức phản ánh được tính giai cấp, tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính được đảm bảo bằng nhà nước. – Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể, đặc điểm cụ thể của từng xã hội, của mỗi nước mà nhà nước chấp nhận và thừa nhận hình thức pháp luật này hay hình thức pháp luật khác. – Hình thức pháp luật có 2 dạng: hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. 2. Hình thức bên trong. Bao gồm: các nguyên tắc chung của pháp luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật. – Các nguyên tắc chung phổ biên của pháp luật là những cơ sở xuất phát điểm cho phép mỗi công dân, cũng như cơ quan xây dựng và áp dụng pháp luật tự xử sự trong trường hợp cần có 1 hành vi pháp lý tương ứng với hoàn cảnh (Ví dụ: để làm luật, để áp dụng pháp luật, để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân). – Các nguyên tắc pháp luật có thể được quy định trong pháp luật,nhưng cũng có thể không được quy định trực tiếp trong pháp luật mà tồn tại trong học thuyết pháp lý, trong thực tế đời sống chung của mọi người, được vận dụng như những phương châm chỉ đạo chung trong quá trình áp dụng pháp luật. Những nguyên tắc nổi tiếng như: được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, dân chủ, công bằng, bác ái… – Trong phạm vi 1 quốc gia có 1 hệ thống pháp luật. Trong hệ thống pháp luật ấy có các ngành luật, trong các ngành luật có các chế định pháp luật, trong các chế định pháp luật có các quy phạm pháp luật. – Ngành luật là 1 hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh 1 lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định với những phương pháp điều chỉnh nhất định. 2 yếu tố quan hệ xã hội và phương pháp điều chỉnh là 2 yếu tố để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác, trong đó yếu tố lĩnh vực quan hệ xã hội tức đối tượng điều chỉnh giư vai trò chủ đạo. Ví dụ: ngành luật dân sự, ngành luật hình sự… – Chế định pháp luật là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong cùng 1 ngành luật. Ví dụ: Luật dân sự có các chế định: quyền sở hữu, quyền thừa kế…. – Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận. Quy tắc xử sự chung ở đây có nghĩa là quy tắc xử sự cho tất cả các chủ thể pháp luật: các công dân, cơ quan, tổ chức. Quy phạm pháp luật gồm: giả định, quy định và chế tài. 3. Hình thức bên ngoài của pháp luật (nguồn của pháp luật). – Khi nói đến hình thức bên ngoài của pháp luật là nói đến sự biểu hiện ra bên ngoài của nó. – Nguồn pháp luật bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp, Văn bản pháp luật, những quy định của luật tôn giáo (ví dụ: luật hồi giáo). ở 1 số nước người ta còn coi học thuyết khoa học pháp lý cùng là nguồn pháp luật. + Tập quán pháp là những tập quán lưu truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị đã được nhà nước thừa nhận, làm cho chúng trở thành những quy tắc xử sự chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong nhà nước chủ nô và phong kiến, trong nhà nước tư sản hình thức này vẫn được sử dụng nhất là những nước có chế độ quân chủ, nhưng ở phạm vi hẹp hơn so với các thời đại trước. + Tiền lệ pháp là các quyết định của cơ quan hành chính hoặc xét xử được thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những vụ tương tự. Hình thức này được sử dụng trong các nước chủ nô, sử dụng rộng rãi trong các nước phong kiến và hiện nay chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ. ở không ít các quốc gia các quyết định, các văn bản của tòa án tối cao về những vụ việc mà sự áp dụng pháp luật gặp khó khăn (do không có quy định pháp luật hoặc các quy định pháp luật đã quá lạc hậu) đã trở thành khuôn mẫu để các tòa án giải quyết các vụ việc tương tự sau đó. Các quyết định, các văn bản đó là án lệ. + Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trong đó quy định những quy tắc xử sự chung (có tính quy phạm phổ biến đối với tất cả các chủ thể pháp luật, được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội). Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: văn bản luật và văn bản dưới luật. Từ khi nhà nước tư sản ra đời thì Hiến pháp trở thành văn bản pháp luật cơ bản nhất của nhà nước. Sau Hiến pháp đến các văn bản luật và văn bản dưới luật. Các văn bản quy phạm pháp luật nói chung đều được ban hành, sửa đổi, hủy bỏ hoặc bổ sung theo một trình tự nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể, tức là quy phạm pháp luật. – Mỗi hệ thống pháp luật, người ta có quan niệm riêng của mình về nguồn của pháp luật , về giá trị của từng loại nguồn. Hệ thống pháp luật trên thế giới: HTPL lục địa, HTPL Anh- Mỹ (common law), HTPL tôn giáo. + Những nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn pháp luật chủ yếu có giá trị nhất chính là các văn bản pháp luật: các bộ luật, đạo luật, nghị định… + HTPL Anh- Mỹ: nguồn quan trọng nhất và giá trị nhất là án lệ. Là luật án lệ nên các quy phạm trong luật Anh- Mỹ là một phần cơ bản của bản án hay quyết định của tòa án cấp trên. +Quy phạm theo luật Châu Âu lục địa chính là những quy tắc xử sự chung có tính khái quát và trìu tượng cao được chứa đựng trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. + HTPL Anh – Mỹ: quy phạm được gắn liền với tình tiết của một vụ án cụ thể đưa ra áp dụng tương tự cho các vụ án sau này. + ở 1 số nước theo đạo hồi, người ta lại coi kinh Coran như 1 loại nguồn chủ yếu của pháp luật. – ở nước ta, tập quán pháp hoặc còn gọi là luật tục chưa được nhà nước coi như 1 loại nguồn của pháp luật. Các cơ quan pháp luật không được sử dụng các tục lệ ở các địa phương, của các dân tộc khác nhau để giải quyết những tranh chấp, những vụ án dân sự, hình sự cụ thể. Kết quả là 1 số quyết định, bản án của tòa án hoặc không phát huy được hiệu lực pháp lý,hoặc bị phản ứng mạnh từ phía nhân dân địa phương, hoặc nói chung là không được thi hành đầy đủ. Điều này đặt ra cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu thấu đáo vấn đề luật tục để từ đó đề ra những giải pháp phù hợp. Còn về án lệ, trong thời gian mới giành chính quyền , ở nước ta, bên cạnh các văn bản của Chính phủ, nó đã từng được coi là 1 loại nguồn quan trọng của pháp luật. Tuy nhiên, càng về sau án lệ không được cọi trọng nữa. Khi nhà nước khẳng định trong Hiến pháp nguyên tắc:” khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cũng có nghĩa là không coi án lệ là nguồn của pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế, nước ta vẫn còn án lệ nhưng theo 1 cách khác. Tòa án nhân dân tối cao vẫn thường làm công tác tổng kết việc giải quyết 1 số loại vụ việc để từ đó đề ra đường lối hướng dẫn cách giải quyết những vụ việc tương tự cho các tòa án địa phương. Có thể coi đây là 1 biến dạng của án lệ.

II. Chức năng của pháp luật: – Chức năng của pháp luật là những mặt, những phương diện chủ yếu của pháp luật, thể hiện bản chất và giá trị xã hội của pháp luật. – Pháp luật có 2 chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh và chức năng giáo dục (tác động vào ý thức con người). + Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật: thực hiện theo 2 hướng chính: 1 mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ chủ yếu trong xã hội, mặt khác pháp luật phải bảo đảm cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Nói cách khác, pháp luật vừa làm nhiệm vụ “trật tự hóa” các quan hệ xã hội, đưa chúng vào những phạm vi khuôn mẫu nhất định, vừa tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng mong muốn. Chức năng điều chỉnh của pháp luật đươc thực hiện thông qua các hình thức: quy định, cho phép, ngăn cấm, khuyến khích, quy định quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các bên. + Chức năng giáo dục của pháp luật: được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức và tâm lý con người. Con người hiểu được rằng xã hội, nhà nước cần anh ta phải xử sự như thế nào khi ở hoàn cảnh mà pháp luật mô tả và nếu không xử sự như thế thì phải chịu những hậu quả bất lợi như thế nào. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội.

III. Các mối liên hệ của pháp luật. 1. Pháp luật và kinh tế. – Pháp luật là yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội. Pháp luật sinh ra trên cơ sở hạ tầng và được quy định bởi cơ sở hạ tầng. Trong mối quan hệ pháp luật- kinh tế thì các điều kiện kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định tòan bộ nội dung và sự phát triển của nó. – Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện: + Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ thống pháp luật. + Tính chất của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất của các quan hệ pháp luật, mức độ, phương pháp điều chỉnh của pháp luật (ví dụ: trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chỉ cần phương pháp điều chỉnh hành chính- mệnh lệnh, nhưng trong kinh tế thị trường thì lại cần các phương pháp tự do thỏa thuận, bình đẳng, cùng có lợi…). + Các tổ chức và thiết chế pháp lý( cơ quan lập pháp, các thủ tục pháp lý) chịu ảnh hưởng quyết định từ phía chế độ kinh tê. – Pháp luật tác động ngược trở lại với kinh tê. + Pháp luật tác động tích cực đến sự phát triển của kinh tế, đến cách tổ chức và vận hành của toàn bộ nền kinh tế, cũng như bên trong của nền kinh tế nếu nó được xây dựng phù hợp với quy luật kinh tế- xã hội. + Pháp luật kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, hoặc 1 trong các yếu tố hợp thành của hệ thống kinh tế nếu nó không phù hợp với các quy luật kinh tê- xã hội. + Pháp luật kích thích kinh tế phát triển ở 1 số mặt nhưng lại kìm hãm sự phát triển của nó ở 1 số mặt khác. Đây là điều xảy ra đối với pháp luật trong thời kỳ quá độ, trong những bước chuyển. 2. Pháp luật và chính trị. – Mối quan hệ pháp luật và kinh tế là mối quan hệ gián tiếp. Pháp luật phản ánh các yêu cầu của nền kinh tế thông qua chính trị. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế trong các mối quan hệ qua lại giữa các tầng lớp, giai cấp, dân tộc trong hoạt động của nhà nước. Chính trị gắn chặt với lợi ích kinh tế và nhu cầu phát triển của kinh tế. Pháp luật muốn phản ánh kinh tế, tác động đến kinh tế phải tiếp thu các yếu tố chính trị. – Pháp luật vừa là biện pháp, phương tiện để thực hiện chính trị của giai cấp cầm quyền , vừa là hình thức biểu hiện của chính trị, ghi nhận yêu cầu, nội dung chính trị của giai cấp cầm quyền. – Mối liên hệ pháp luật- chính trị biểu hiện tập trung trong mối quan hệ giữa đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và pháp luật của nhà nước. Đường lối chính trị của đảng cầm quyền có ý nghĩa chỉ đạo trong việc xây dựng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Pháp luật làm cho đường lối, chính sách của đảng thành ý chí chung, thành ý chí nhà nước. 3. Pháp luật và nhà nước. – Nhà nước và pháp luật là 2 yếu tố của kiến trúc thượng tầng, đều là phương diện của quyền lực chính trị, cùng phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là tổ chức của quyền lực chính trị, pháp luật là tổng hợp các quy tắc xử sự chung của tòan xã hội. – Nhà nước phụ thuộc vào pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng lệ thuộc vào nhà nước và không tồn tại được nếu thiếu nhà nước. – Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật là công cụ trong tay nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội: quyền lực dựa trên cơ sở pháp luật, được thực hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi chính pháp luật (quan niệm nhà nước pháp quyền). Trong mối liên hệ nhà nước và pháp luật, không thể coi nhà nước cao hơn pháp luật, nhà nước ban hành pháp luật thì nhà nước có quyền quyết định sử dụng hoặc không sử dụng pháp luật, cần thấy sự lệ thuộc vào nhà nước của 2 yếu tố thuộckiến trúc thượng tầng này: + Pháp luật có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nhà nước. +Nhà nước đề ra pháp luật thì chính nhà nước phải nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật trong tổ chức và hoạt động của mình, không được chà đạp pháp luật. + Pháp luật do nhà nước bàn hành và cũng chính nhà nước bằng nhiều biện pháp khác nhau đã đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trong cuộc sống. 4. Pháp luật và các quy phạm xã hội khác. – Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, xã hội loài người đã dùng những quy phạm xã hội: quy phạm đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm pháp luật… Quy phạm pháp luật chỉ là một trong nhiều loại quy phạm xã hội dùng để điều chỉnh quan hệ xã hội. – Khác với các quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật chỉ tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp và sự hình thành, tồn tại và phát triển của quy phạm pháp luật luôn gắn liền với nhà nước. Pháp luật có thuộc tính riêng để phân biệt với quy phạm khác(3 thuộc tính). – Pháp luật là 1 yếu tố điều chỉnh không thể thiếu được trong 1 nước, 1 xã hội phân chia giai cấp. – Không nên tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, phải đánh giá đúng vai trò của nó và biết kết hợp sử dụng nó với các quy phạm xã hội khác để điều chỉnh các quan hệ xã hội có hiệu quả nhất.

Câu 13: Bản chất và đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam. Các mối liên hệ.

  1. Bản chất, đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam: – Bản chất của pháp luật XHCN thể hiện trong tính giai cấp, những thuộc tính, giá trị xã hội, các chức năng của pháp luật nói chung, cũng như trong mối liên hệ pháp luật với kinh tế, chính trị, nhà nước và các quy phạm xã hội khác. – Bản chất pháp luật XHCN với tính cách là kiểu pháp luật kiểu mới còn được thể hiện trong các đặc điểm sau: 1. Pháp luật XHCN mang tính nhân dân sâu sắc. – Nội dung của nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác chiếm tuyệt đại đa số trong bộ phận dân cư trong xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với kiểu pháp luật bóc lột- kiểu pháp luật chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị chiếm thiểu số dân cư. – Pháp luật XHCN đưa người dân lao động từ thân phận tôi đòi, làm thuê, lệ thuộc trong xã hội cũ trở thành những chủ nhân chân chính của xã hội mới, ghi nhận chủ quyền nhân dân, quy định một cách rộng rãi các quyền tự do dân chủ cho công dân, tạo ra sự đảm bảo cho sự thực hiện quyền đó. 2. Pháp luật XHCN khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, khuyến khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào trong nước. 3. Pháp luật XHCN tuy mang tính cưỡng chế nhưng tính cưỡng chế đó đã chứa đựng những nội dung mới, khác với các kiểu pháp luật bóc lột. – Trong pháp luật XHCN cũng có những quy định bắt buộc, cấm đoán, dự liệu những biện pháp cưỡng chế song do nội dung của pháp luật XHCN phù hợp với lợi ích, nhu cầu của đại đa số nhân dân nên nhìn chung nó được thực hiện một cách tự giác. – Về căn bản cưỡng chế được đặt ra đối với người vi phạm pháp luật và nó được tiến hành trong sự kết hợp chặt chẽ với giáo dục, thuyết phục, trên cơ sở giáo dục thuyết phục. 4. Pháp luật XHCN có phạm vi điều chỉnh rộng. Không những nó quy định những vấn đề như tổ chức quyền lực nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… mà còn điều chỉnh cả lĩnh vực trực tiếp tổ chức, quản lý lao động như: định mức lao động, thống kê, kiểm tra… 5. Pháp luật XHCN liên hệ mật thiết với các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là các quy tắc đạo đức, tập quán và các quy phạm của các tổ chức xã hội. – Các tư tưởng và các quy tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp luật XHCN . Đến lượt mình, pháp luật lại củng cố và truyền bá các giá trị đạo đức đó. Giữa pháp luật XHCN và các tư tưởng, quy tắc đạo đức có điều gì mâu thuẫn thì điều đó phải được giải quyết trên cơ sở đạo đức. – Pháp luật XHCN bảo vệ những tập quán truyền thống tiến bộ. Mặt khác, nó cũng ngăn cản, hạn chế và loại trừ những tập tục lạc hậu ( như tảo hôn, đa thê…) – Pháp luật có quan hệ mật thiết với các quy phạm của các tổ chức xã hội nhất là Nghị quyết, điều lệ của Đảng cộng sản. Đường lối chính sách của Đảng là một trong những cơ sở của pháp luật. Mặt khác, pháp luật cũng là một trong những cơ sở để Đảng hoạch định đường lối, chính sách (Điều 4 Hiến pháp 1992). Pháp luật XHCN là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác, được quy định bởi cơ sở kinh tế của CNXH trong thời kỳ mới, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích xây dựng một xã hội dân chủ và phồn vinh.

II. Mối liên hệ pháp luật Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay: (xem giáo trình).

Câu 14: Lý luận và thực trạng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

  1. Lý luận: – Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện của các quyết định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự và dưới hình thức nhất định, có chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần, trong thực tiễn đời sống và việc thực hiện văn bản không làm chấm dứt hiệu lực của nó. + Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành: không phải mọi văn bản pháp luật đều là văn bản quy phạm pháp luật. VBQPPL được thực hiện theo 1 trình tự luật định. + VBQPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung (mang tính quy phạm phổ biến). + VBQPPL được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội, áp dụng trong mọi trường hợp khi có sự kiện pháp lý xảy ra. 1. Quốc hội: + Hiến pháp + Luật + Nghị quyết. Hiến pháp là luật cơ bản, quy định những vấn đề cơ bản nhất của quốc gia. Luật điều chỉnh các loại quan hệ trong đời sống nhà nước và xã hội. Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể, nhất thời. 2. UBTVQH: + Pháp lệnh + Nghị quyết Nhiều pháp lệnh mang tính chất luật, điều chỉnh quan hệ xã hội chưa được pháp điển hóa thành luật. Nghị quyết giải quyết những vấn đề cụ thể. 3. Chủ tịch nước: + Lệnh + Quyết định Có hiệu lực pháp lý gần như ngang với văn bản của UBTVQH, cao hơn các văn bản của Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. 4. Chính phủ: + Nghị quyết + Nghị định Có hiệu lực pháp lý thấp hơn văn bản của Chủ tịch nước. 5. Thủ tướng Chính phủ: + Quyết định + Chỉ thị Sử dụng quá trình điều hành Chính phủ. 6. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ: + Quyết định + Chỉ thị + Thông tư Giới hạn trong phạm vi của 1 bộ, hoặc cùng các bộ, ban ngành, tổ chức xã hôi cùng thực hiện một vấn đề chung. 7. Hội đồng thẩm phán TANDTC: + Nghị quyết 8. Viện trưởng VKSNDTC: + Quyết định + Chỉ thị + Thông tư 9. HĐND: + Nghị quyết. 10. UBND: + Quyết định + Chỉ thị Hệ thống VBQPPL ở Việt Nam theo Hiến pháp 1992 và luật ban hành VBQPPL bao gồm: – Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, Nghị quyết. – Văn bản do UBTVQH ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết. – Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thi hành VBQPPL của Quốc hội và UBTVQH: + Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. + Nghị quyết, nghị định của Chính phủ. Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. + Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. + Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC. +Nghị quyết, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng VKSNDTC. + Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền với các tổ chức chính trị- xã hội. – Văn bản do HĐND, UBND để thi hành VBQPPL của Quốc hội, UBTVQH và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn bản do UBND ban hành còn để thi hàng Nghị quyết của HĐND cùng cấp. + Nghị quyết của HĐND. + Quyết định, chỉ thị của UBND.

II. Thực trạng: 1. Ưu điểm: (4) – Pháp luật từ chỗ tản mạn nay đã có hẳn chương trình xây dựng pháp luật, có luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. – Bước đầu có sự pháp điển hóa thành các bộ luật, pháp luật trở nên gần gũi, khách quan và khả thi hơn. – Pháp luật ngày càng ghi nhận các quyền và lợi ích chính đáng của con người mà trước đây chủ yếu nói về nghĩa vụ, bổn phận. – Ta đã quan tâm đến cả 2 mặt pháp luật kinh doanh và pháp luật về các vấn đề xã hội phát huy những mặt tích cực và phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường, từng bước giải quyết 2 vấn đề tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. 2. Hạn chế: (7). – Quy trình, thể thức ban hành văn bản của ta về cơ bản còn lạc hậu so với các nước trên thế giới. – VBQPPL của ta, qua đợt tổng rà sóat đã phát hiện nhiều sai phạm, nhiều văn bản chồng chéo, trái với quy định của luật, nghị định… – Quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, xét về tổng thể, hệ thống VBQPPL của ta hiện rất lộn xộn, có nhiều văn bản hướng dẫn hay quy định 1 cách sai lạc so với quy định của pháp luật hoặc văn bản cấp trên. – Văn bản pháp luật của ta thường xuyên thay đổi, mất đi tính ổn định của pháp luật. – VBQPPL của ta thiếu tính minh bạch, nhiều quy phạm khôngcó cách hiểu thống nhất. Nhiều văn bản mức độ khái quát hóa cao, dẫn đến việc hiểu như thế nào cũng được, không khả thi và khó thực hiện. – Nhiều văn bản pháp luật không được công khai hóa, khó cập nhật với người dân, dẫn đến tình trạng người dân không hiểu luật, thậm chí thờ ơ trước pháp luật. – Trong những năm gần đây, không hẳn là chúng ta thiếu các văn bản pháp luật, tuy nhiên vấn đề thực thi trên thực tế lại không mấy hiệu quả do pháp luật của chúng ta chưa đi vào cuộc sống, chưa được áp dụng một cách triệt để và đồng bộ. 3. Phương hướng hòan thiện: (5). – Dân chủ hóa trong việc ban hành các văn bản pháp luật, mục đích xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tham gia lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, VBQPPL ban hành phải thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân. – Nâng cao chất lượng soạn thảo, xây dựng VBQPPL, bằng việc khảo sát thực tế, phát hiện những vấn đề hợp lý nhưng chưa hợp pháp cần tháo gỡ để hoàn thiện. – Hoàn thiện hệ thống VBQPPL để người dân có thể dễ dàng truy cập, ngôn ngữ cần phải đơn giản, dễ hiểu, dễ vận dụng trên thực tế. – Văn bản cần phải minh bạch, chặt chẽ về mặt hình thức, đáp ứng được yêu cầu về mặt nội dung. – Tăng cường công tác pháp điển hóa, tập hợp hóa các văn bản dưới luật để đề lên thành luật. Đồng thời kiểm tra, rà soát những văn bản đã hết hiệu lực.

Câu 15: Xu hướng cơ bản phát triển của pháp luật.

– Hiện nay nhà nước pháp quyền đang được coi là giá trị văn minh của nhân loại mà mọi người, mọi quốc gia muốn trở thành dân chủ, tiến bộ, văn minh đều phải hướng tới. – ở Việt Nam, mặc dù nhà nước pháp quyền là vấn đề mới cả về phương diện lý luận nhận thức và thực tiễn nhưng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đã được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX của Đảng, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 và đang được nghiên cứu, xây dựng cho phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước. – Hiện nay, xung quanh vấn đề khái niệm nhà nước pháp quyền có nhiều quan điểm rất khác nhau thậm chí mâu thuẫn nhau nhưng tất cả các quan điểm đó đều đề cập đến 1 đặc điểm rất quan trọng và nổi b ật của nhà nước pháp quyền đó là vai trò to lớn của pháp luật. – Pháp luật trong nhà nước pháp quyền chỉ là phương tiện quản lý mọi mặt của đời sống xã hội mà còn là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội, đối với mọi công dân tồn tại trong xã hội đó. Nó không chỉ là phương tiện để đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà còn là yếu tố đảm bảo và duy trì ổn định và phát triển xã hội, của đất nước, đảm bảo về mặt pháp lý quyền tự do dân chủ của công dân được thực hiện. – Để thực sự phát huy được vai trò to lớn của mình trong nhà nước pháp quyền, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, pháp luật Việt Nam cần đổi mới và phát triển theo các xu hướng sau: 1. Quy định rộng rãi hơn trong pháp luật các thiết chế dân chủ và những hình thức dân chủ trong đời sống xã hội, mở rộng các quyền tự do dân chủ của công dân, dân chủ hóa hoạt động tư pháp. – Hiến pháp 1992 và các đạo luật tổ chức bộ máy nhà nước đã thực hiện tư tưởng cải cách bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Đối chiếu những điều khoản tương ứng của Hiến pháp 1992 với Hiến pháp 1980, có thể thấy vị trí, vai trò của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được nêu cao một bước. Pháp luật hiện hành cũng quy định chặt chẽ hơn địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội và quan hệ của các tổ chức đó với nhà nước, tạo điều kiện cho chúng tham gia quản lý những công việc của nhà nước và xã hội. – Hiến pháp 1992( chương V) quy định rộng rãi và hợp lý hơn các quyền và nghĩa vụ của công dân so với Hiến pháp 1980. Có những quyền lần đầu tiên được Hiến pháp 1992 quy định, ví dụ: công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57). Nhiều năm gần đây xuất hiện những quy định pháp luật mở rộng quyền tự do đi lại, ra nước ngoài thăm thân nhân, đi học tập, đào tạo… – Pháp luật hiện hành điều chỉnh chi tiết hơn những hình thức để công dân và các tổ chức của họ tham gia vào đời sống chính trị, mở rộng hoặc quy định chi tiết hơn các hình thức như bầu cán bộ lãnh đạo, bỏ phiếu tín nhiệm, thảo luận góp ý kiến dự án pháp luật, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý, khiếu nại, tố cáo…tạo ra cơ sở cho công dân tham gia tòan diện hơn vào công tác quản lý nhà nước. – Việc dân chủ hóa trong hoạt động tư pháp, việc ban hành pháp lệnh luật sư, sửa đổi quy định Hiến pháp về chức năng VKS, việc thành lập tòa kinh tê, hành chính trong hệ thống tòa án cùng với chế độ bổ nhiệm thẩm phán, công khai hoạt động xét xử, coi trọng nguyên tắc bào chữa và từ bào chữa của bị can , bị cáo… đã thể hiện bước tiến quan trọng của pháp luật nước ta. 2. Mở rộng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. -Dưới tác động của quá trình xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,bao cấp và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, phạm vi điều chỉnh của pháp luật nước ta có những thay đổi nhất định và ngày càng mở rộng. Xuất hiện những văn bản quy phạm pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề: đầu tư của cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam, bảo vệ môi trường, đảm bảo về mặt xã hội đối với người lao động, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân… Để nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường, bên cạnh đòi hỏi hoàn thiện luật dân sự chắc chắn sẽ phải có các văn bản điều chỉnh chi tiết hơn về hoạt động, tổ chức, ngoại hối, ngân sách, tín dụng, thuế, giá cả, chống độc quyền, phá sản, bảo vệ người tiêu dùng… – Sự thay đổi và mở rộng phạm vi điều chỉnh của pháp luật diễn ra không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Ví dụ: vấn đề dân số, di sản văn hóa, du lịch… 3. Nhân đạo hóa, vì con người và bảo vệ con người. – Ngay từ khi hình thành, nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta đã được khẳng định. Ngày nay pháp luật Việt Nam ngày càng quan tâm nhiều hơn đến con ngừoi và cuộc sống của họ. – Xu hướng nhân đạo hóa vì con người và bảo vệ con người được thể hiện ở chỗ chẳng những pháp luật ngày càng chú trọng tới lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, mở rộng quyền tự do dân chủ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của công dân, thiết lập lối sống tập thể ; mà còn ở quá trình thay thế các biện pháp quản lý cứng nhắc mang tính chất trừng trị bằng các biện pháp mang tính nhân đạo hơn và giáo dục hơn. Trong pháp luật hình sự có những hành vi ít nguy hiểm cho xã hôi trong điều kiện mới đã không bị coi là tội phạm mà chỉ bị xử lý hành chính. Pháp luật xử phạt hành chính hiện hành cũng xóa bỏ nhiều hình thức xử phạt trước đó và chỉ giữ 2 hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền và 2 hình phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. – Xu hướng nhân đạo cũng được biểu hiện ở sự xóa bỏ 1 số hành vi trước đây coi là vi phạm pháp luật và chuyển giao cho các tổ chức xã hội, tập thể lao động giải quyết bằng giáo dục, thuyết phục và các biện pháp tác động xã hội khác. – Tuy nhiên xu hướng nhân đạo hóa không loại trừ việc pháp luật quy định tăng nặng hình phạt và các chế tài khác đối với một số vi phạm nhất định nhằm thiết lập, củng cố trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: Gần đây pháp luật hình sự nước ta đã quy định mức án cao nhất là tử hình đối với tội tham nhũng hoặc pháp luật xử phạt hành chính cũng có xu hướng tăng mức tiền phạt đối với buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép. 4. Sự phát triển pháp luật gắn liền vơi xu hướng pháp điển hóa các ngành luật. – Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền là quá trình phải đề cao vai trò của pháp luật và các đạo luật, bộ luật ngày càng chiếm lĩnh vị trí chủ đạo trong việc điều chỉnh những lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng của đời sống. Thực tiễn đòi hỏi phải dần thay thế các văn bản dưới luật bằng những đạo luật, bộ luật, đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, khắc phục sự mâu thuẫn, chồng chéo và tình trạng cục bộ ngành, chủ nghĩa đa phương thể hiện trong pháp luật. – Hiện nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng pháp luật. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, nhiều đạo luật mới, ví dụ các luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã được ra đời. Thời gian tới nhà nước sẽ ban hành nhiều các đạo luật khác như Luật Tòa án hành chính, Luật công chức nhà nước. – Bên cạnh Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật hàng hải… đã được ban hành, bộ luật dân sự cũng đang được quan tâm xây dựng. – Thời gian qua, hoạt động xây dựng pháp luật theo hướng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền đã được triển khai một cách có hiệu quả. Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là xây dựng nhà nước pháp quyền thực sư của dân, do dân và vì dân. Pháp luật thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ nhân dân. Nhân dân là trung tâm, là mục tiêu hướng tới của pháp luật cũng như mọi thiết chế chính trị. Với những xu hướng phát triển cơ bản như trên, pháp luật chắc chắn sẽ đáp ứng những yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền và góp phần vào quá trình hiện thực hóa nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Câu 16: Quan hệ pháp luật.

  1. Khái niệm quan hệ pháp luật.

– Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội dưới tác động điều chỉnh của các quy phạm pháp luật.

– Phân biệt quan hệ pháp luật với quan hệ xã hội: Không phải dưới tác động của quy phạm pháp luật, quan hệ xã hội sẽ trở thành quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật cũng không phải là 1 bộ phận của quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội luôn tồn tại khách quan, quan hệ pháp luật là phạm trù chủ quan xuất hiện trên cơ sở ý chí của nhà làm luật. QHXH được nhiều khoa học xã hội khác nhau nghiên cứu, còn QHPL do khoa học pháp lý nghiên cứu. Nhưng 2 khái niệm này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi một QHXH được khoác chiếc áo pháp lý thì vẫn tồn tại song song 2 loại quan hệ: QHXH nội dung vật chất của QHPL, QHPL là hình thức pháp lý của QHXH. QHPL có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc làm trật tự hóa QHXH, hướng nó phát triển phù hợp với ý định của nhà làm luật.

– Đặc điểm:

1. QHPL là quan hệ mang tính ý chí.

– QHPL phát sinh trên cơ sở quy phạm pháp luật, mà nội dung quy phạm pháp luật phản ánh ý chí nhà nước.

– Trong đa số các trường hợp, trong khuôn khổ quy phạm pháp luật đã xác định, QHPL phát sinh, thay đổi và chấm dứt do ý chí của các bên tham gia.

2. QHPL là một loại quan hệ tư tưởng, quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng.

– Pháp luật nói chung là một hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng. QHPL xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật vì vậy nó thuộc kiến trúc thượng tầng. Tính chất và nội dung QHPL phụ thuộc vào tính chất quan hệ sản xuất.

– Sự phụ thuộc của QHPL vào cơ sở kinh tế: là 1 loại quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng, QHPL thay đổi phù hợp với sự thay đổi của cơ sở kinh tế, kiểu quan hệ sản xuất nhất định sẽ sản sinh ra kiểu QHPL tương ứng.

-Sự tác động trở lại của QHPL với cơ sở kinh tế: sở dĩ như vậy vì hầu hết các quan hệ kinh tế XHCN đều thực hiện dưới hình thức pháp lý- QHPL. QHPL không chỉ có vai trò quan trọng trong việc củng cố các quan hệ kinh tế mà còn tạo điều kiện cho nó phát triển thuận lợi. Không loại trừ khả năng nó kìm hãm, hạn chế sự phát triển của quan hệ kinh tế.

3. QHPL xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật.

– Không có quy phạm pháp luật thì không có QHPL. QHPL là phương tiện thực hiện quy phạm pháp luật, vì quy phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống thông qua QHPL.

– Quy phạm pháp luật xác định trước điều kiện xuất hiện của QHPL, chủ thể tham gia quan hệ, quyền và nghĩa vụ pháp lý và những biện pháp bảo vệ quyền và nghĩa vụ ấy khi chúng bị vi phạm.

4. QHPL là quan hệ mà các bên tham gia( chủ thể) quan hệ đó mang quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.

– Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật quy định cấu thành nội dung của quan hệ quy phạm. Quy phạm pháp luật luôn quy định sao cho quyền chủ thể của một bên phải tương ứng với nghĩa vụ pháp lý của bên kia và ngược lại, nghĩa vụ pháp lý của 1 bên phải phù hợp với quyền chủ thể của bên còn lại.

5. Sự thực hiện quan hệ pháp luật được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước.

– QHPL xác định rõ trách nhiệm phap lý của các chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý hoặc quyền chủ thể, đồng thời quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý khi có vi phạm.

– Tuy nhiên, QHPL được thực hiện trong đời sống không chỉ nhờ cưỡng chế mà còn được thực hiện nhờ ý thức tự giác, tự nguyện của các bên tham gia.

6. QHPL có tính xác định.

Trên cơ sở quy phạm pháp luật, nhiều QHPL được hình thành. QHPL có tính xác định cụ thể vì nó chỉ xuất hiện khi có sự kiện pháp lý, khi có chủ thể nhất định tham gia.

* Phân loại QHPL:

– Tương ứng với các ngành luật: quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hình sự…

– Căn cứ vào cách quy định quyền và nghĩa vụ giữa những bên tham gia:

+ QHPL phức tạp: mỗi chủ thể có cả quyền và nghĩa vụ.

+ QHPL đơn giản: 1 bên thuần túy có quyền, 1 bên có nghĩa vụ.

– Tính chất nghĩa vụ được trao cho các bên tham gia:

+ QHPL tích cực: bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bằng những hành động tích cực.

+ QHPL thụ động: bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bằng không hành động.

– Căn cứ vào đặc trưng của sự tác động:

+ QHPL điều chỉnh: là quan hệ hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh.

+ QHPL bảo vệ: là quan hệ hình thành trên cơ sở quy phạm pháp luật bảo vệ trật tự pháp luật.

II. Chủ thể pháp luật và chủ thể QHPL:

– Chủ thể QHPL là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia QHPL , có được quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật.

– Chủ thể pháp luật có thuộc tính đặc biệt do nhà nước trao cho là năng lực chủ thể.

+ Năng lực pháp luật: là khả năng chủ thể có được quyền và nghĩa vụ pháp lý m à nhà nước thừa nhận.

+ Năng lực hành vi: là khả năng của chủ thể, khả năng này được nhà nước thừa nhận, bằng các hành vi của mình thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý khi tham gia các QHPL.

– Đặc điểm các loại chủ thể:

+ Công dân: . Năng lực chủ thể xuất hiện từ khi sinh ra.

. Năng lực hành vi: đến một độ tuổi nhất định, ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ, sức khỏe.

+ Người nước ngoài, người không có quốc tịch: có thể trở thành chủ thể QHPL theo các điều kiện áp dụng cho công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong 1 số lĩnh vực, năng lực chủ thể của người nước ngoài và người không có quốc tịch bị hạn chế hoặc trong trường hợp cá biệt được mở rộng hơn.

+ Các tổ chức: gồm tổ chức nhà nước (cơ quan quản lý, quyền lực nhà nước, tòa án, viện kiểm sát…); tổ chức xã hội; nhà nước nói chung; tổ chức kinh tế.

. Nhà nước là chủ thể đặc biệt của pháp luật, là chủ thể của QHPL quốc tế, của ngành luật nhà nước.

. Các tổ chức: có đặc trưng:

  1. Cơ cấu tổ chức thống nhất quy định trong quy chế, điều lệ, hoặc trong văn bản của nhà nước.
  1. Có năng lực pháp lý xác định.
  1. Năng lực pháp luật, năng lực hành vi xuất hiện đồng thời với việc thành lập tổ thức.
  1. Năng lực hành vi được thực hiện thông qua cơ quan, người đại diện.
  1. Hoạt động của các tổ chức được gắn liền với những lĩnh vực nhất định của đời sống nhà nước và xã hội.

+ Trong lĩnh vưc dân sự, kinh tế, các tổ chức có tư cách pháp nhân:

  1. Là tổ chức có cơ cấu thống nhất, hoàn chỉnh.
  1. Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm tài sản của mình.
  1. Họat động với danh nghĩa riêng, có trụ sở và quốc tịch.
  1. Có thể nhân danh mình tiến hành các hoạt động kể cả hoạt động tố tụng và chịu trách nhiệm về hậu quả phát sinh từ hoạt động đó.

II. Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.

Là nội dung của QHPL, xuất hiện ở các cá nhân, tổ chức trên cơ sở quy phạm pháp luật.

1. Quyền chủ thể: là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ được quy phạm pháp luật quy định trước, được bảo vệ bởi sự cưỡng chế nhà nước.

– Đặc điểm quyền chủ thể:

+ Khả năng được hoạt động trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định trước.

+ Khả năng yêu cầu bên kia (chủ thể cùng tham gia QHPL) thực hiện nhiệm vụ của họ ( sự thực hiện có thể bằng hành động hoặc không hành động).

+ Khả năng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết đối với bên kia để họ thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp quyền chủ thể của mình bị bên kia vi phạm.

– Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao nghĩa vụ: quyền năng. Là khả năng của 1 bên, khả năng đó được nhà nước bảo vệ, yêu cầu bên kia có xử sự cần thiết trong khuôn khổ do quy phạm pháp luật xác định.

– Quyền chủ thể xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao quyền: là những loại biện pháp thuộc khả năng xử sự của bản thân chủ thể được nhà nước bảo vệ.

2. Nghĩa vụ pháp lý:

– Nghĩa vụ pháp lý trong QHPL là cách xử sự bắt buộc được quy phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền chủ thể của bên kia.

– Đặc điểm:

+ Là sự bắt buộc phải có những xử sự nhất định do quy phạm pháp luật xác định trước.

+ Các xử sự này nhằm thực hiện quyền chủ thể của bên kia.

+ Trong trường hợp cần thiết, nhiệm vụ pháp lý sẽ được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.

– Nghĩa vụ pháp lý xuất hiện trên cơ sở quy phạm trao nghĩa vụ: xuất hiện nghĩa vụ thụ động, tức bên có nghĩa vụ phải kìm chế mình không thực hiện những hành vi bị ngăn cấm.

IV. Khách thể QHPL:

– Khách thể QHPL là cái mà QHPL đó tác động tới.

– Các cá nhân, tổ chức tham gia vào những QHPL nhằm thỏa mãn những nhu cầu kinh tế, chính trị, tinh thần, hoặc thông qua những hành vi thực hiện quyền chính trị, quyền bầu cử… Những hành vi trên gắn chặt với quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.

Khách thể QHPL là các hành vi của các công dân, tổ chức khi tham gia vào QHPL, thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.

– Các hành vi này luôn hướng tới 1 đối tượng cụ thể như lợi ích vật chât (tài sản), giá trị tinh thần (danh dự, nhân phẩm, tự do) hoặc lợi ích chính trị (bầu cử). Các đối tượng này là khách thể của hành vi.

  1. Sự kiện pháp lý:

– Sự kiện pháp lý là những điều kiện,hòan cảnh, tình huống của đời sống thực tế được chỉ ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật mà nhà làm luật gắn chặt sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt của QHPL với sự tồn tại của nó.

– Không phải mọi điều kiện,hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế là sự kiện pháp lý, mà chỉ những sự kiện có ý nghĩa pháp lý trong số đó và được nhà làm luật thừa nhận.

– Phân loại:

+ Phụ thuộc vào số lượng những hoàn cảnh, điều kiện làm này sinh hậu quả pháp lý:

. Sự kiện pháp lý đơn giản: Ví dụ: cái chết của 1 người.

. Sự kiện pháp lý phức tạp: Ví dụ: được nhận lương hưu phải có những điều kiện như thâm niên công tác, thời gian công tác, đơn xin về hưu, quyết định…

+ Căn cứ vào hậu quả sự kiện pháp lý.

. Sự kiện pháp lý làm phát sinh QHPL.

. Sự kiện pháp lý làm biến đổi QHPL.

. Sự kiện pháp lý làm chấm dứt QHPL.

+ Phân theo dấu hiệu ý chí:

. Sự biến: là những hiện tượng của đời sống khách quan xảy ra không phụ thuộc vào ý chí con người.

. Hành vi: bao gồm : hành động và không hành động.

Hành vi hợp pháp: là xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật; hành vi bất hợp pháp là xử sự trái với yêu cầu của pháp luật.

Câu 17: Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật.

  1. Thực hiện pháp luật.

– Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật.

– Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý chia thành những hình thức thực hiện pháp luật sau:

1. Tuân thủ pháp luật:

Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ: 1 công dân kiềm chế không thực hiện những hành vi mà Bộ luật hình sự ngăn cấm- tuân thủ các quy định của bộ luật đó.

2. Thi hành pháp luật:

Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: pháp luật quy định công dân nam từ 18-27 phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, 1 thanh niên trong độ tuổi trên nhập ngũ, phục vụ trong quân đội- thi hành pháp luật.

3. Sử dụng pháp luật :

Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện bằng những hành vi mà pháp luật cho phép). Ví dụ: pháp luật quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, 1 công dân có quyền gửi đơn khiếu nại tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình bị vi phạm- sử dụng pháp luật.

Chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật trao cho theo ý chí của mình.

4. áp dụng pháp luật:

Là 1 hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật.

Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, theo quy định của pháp luật, tổ chức xã hội cũng có thể thực hiện hoạt động này.

* Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là hình thức mà mọi chủ thể đều có thể thực hiện. áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự tham gia của nhà nước.

II. áp dụng pháp luật:

1. Khái niệm áp dụng pháp luật.

  1. Sự áp dụng pháp luật xảy ra trong các trường hợp sau:

– Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp luật quy định với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.

Ví dụ: 1 chủ thể pháp luật thực hiện hành vi phạm tội thì không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt. Cần phải có hoạt động của cơ quan Tòa án, cơ quan bảo vệ pháp luật có liên quan điều tra, xét xử… ra bản án và buộc chấp hành.

– Khi quan hệ pháp luật với những quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý cụ thể không thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.

Ví dụ: Hiến pháp 1992 quy định mọi công dân có quyền và nghĩa vụ lao động. Nhưng quan hệ pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ thể giữa công dân với cơ quan, tổ chức nhà nước chỉ phát sinh khi có quyết định tuyển dụng.

– Khi xảy ra tranh chấp, quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.

Ví dụ: tranh chấp giữa những bên tham gia hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự.

– Trong 1 số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hoặc không tồn tại của 1 số sự việc, sự kiện thực tế.

Ví dụ: việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp.

áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước. Nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật,vừa là cách thức cơ quan nhà nước tổ chức cho các bên chủ thể thực hiện pháp luật.

2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật.

– áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước.

+ Chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành: pháp luật quy định mỗi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện 1 số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong quá trình áp dụng pháp luật, pháp luật được coi là phương tiện, công cụ cần thiết để cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình.

+ Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng.

+ Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và chủ thể liên quan.

+ Trong trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm bằng cưỡng chế nhà nước.

– áp dụng pháp luật là hoạt động có hình thức, thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ.

+ Pháp luật quy định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ áp dụng pháp luật.

+ Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục đó.

– áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt , cụ thể đối với các quan hệ xã hội.

+Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là những quan hệ xã hội yêu cầu sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những mệnh lệnh quy phạm chung.

+ Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa, cụ thể hóa vào đời sống xã hội.

– áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.

+ Khi áp dụng pháp luật cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sácg tỏ cấu thành pháp lý, lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng và tổ chức thi hành.

+ Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ cần vận dụng 1 cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự.

* Định nghĩa: áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.

3. Hình thức thể hiện của hoạt động áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật.

Đặc điểm:

– VBADPL là 1 yếu tố của sự kiện pháp lý phức tạp.

– Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách, tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành và được đảm bảo băng biện pháp cưỡng chế nhà nước.

– Có tính chất cá biệt, nó luôn hướng các cá nhân, tổ chức cụ thể trong những trương hợp cụ thể.

– Phải hợp pháp và phù hợp với thực tế. Phải phù hợp với luật và quy phạm pháp luật cụ thể nếu không sẽ bị đình chỉ, hủy bỏ. Không phù hợp với thực tế thì sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả.

– Có những hình thức pháp lý nhất định: như bản án, quyết định…

4. Căn cứ vào nội dung và nhiệm vụ của VBADPL: chia thành 2 loại:

– Văn bản xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý theo hướng tích cực: là loại văn bản trong đó xác định cụ thể ai mang quyền chủ thể, ai mang nghĩa vụ pháp lý bằng con đường cá biệt hóa phần quy định của quy phạm pháp luật.

– Văn bản bảo vệ pháp luật: là văn bản chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.

* VBADPL là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở quy phạm pháp luật nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể mang tính tích cực của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm pháp luật.

III. Thực tiễn áp dụng pháp luật:

ở nước ta trong điều kiện chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, xuất hiện 2 xu hướng có liên hệ mật thiết với nhau:

– Xu hướng thu hẹp phạm vi những quan hệ xã hội cần có sự điều chỉnh cá biệt mang tính quyền lực nhà nước. Nguyên nhân của xu hướng này là sự đổi mới vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế.

– Xu hướng nâng cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật nói chung và chất lượng của VBADPL nói riêng, trong đó đặc biệt quan trọng là đề cao hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án và hiệu quả của các quyết định xét xử của nó. Ngoài hệ thống Tòa án truyền thống xét xử những vụ việc hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình xuất hiện 1 loại tòa án mới như tòa hành chính, tòa kinh tế, tòa lao động.

Điều đó nhằm tạo ra cơ chế hữu hiệu để đảm bảo trật tự kỷ cương, các quyền tự do dân chủ, sự công bằng và tiến bộ xã hội.