So sánh nhân vật thị với thị nở năm 2024

Bài văn lớp 12: So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, Bài văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt là một bài văn hữu ích giúp cho các bạn củng

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu những bài văn hay lớp 12: So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.

Bạn Đang Xem: Bài văn lớp 12: So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt

Người phụ nữ Việt Nam xưa đã phải chịu đựng những đau đớn mà xã hội cũng và chiến tranh đem lại, Thị Nở và người vợ nhặt trong hai tác phẩm cũng là nhưng người phụ nữ xưa chịu đựng nhiều đau đớn. Dưới đây là dàn ý chi tiết cùng với 2 bài văn mẫu so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt mời các bạn tham khảo và tải tại đây.

So sánh nhân vật thị với thị nở năm 2024

  1. Mở bài:

– Giới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.

– Khám phá riêng của mỗi tác giả.

II.Thân bài:

1. Khám phá riêng của Chí Phèo trong Nam Cao :

– Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ, không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đầy vào tù.

– Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình, bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

– Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.

– Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.

2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhặt

– Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy nổi vợ, dáng đi lòng khòng.. )

– Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.. Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc, mặt lưỡi cày xám xịt.. câu chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày sự nghèo đói và thê thảm.

3. Kết thúc của hai tác phẩm

  1. Khác nhau

-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn ngang xuống bụng và trong đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua lại.

Xem Thêm : Bài tập cơ bản và nâng cao môn Toán lớp 1

-Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện.

  1. Giải thích vì sao có sự khác nhau.

– Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách Mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối của XHVN đương thời. Còn “Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.

– Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.

– Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.

4.Phân tích đặc sắc, tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.

  1. Của “Chí Phèo”

– Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi trở về với cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.

– Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.

– Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với “Chí Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.

  1. Của “Vợ nhặt”

– Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như nằm bên bờ vực thẳm của cái chết.

– Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.

– Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống.

III. Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề và nêu ý nghĩa.

So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt – Mẫu 1

Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt trong hai tác phẩm lớn Chí Phèo (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân), chúng ta sẽ thấy được hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ bao đời nay luôn là chủ đề được nhiều nhà văn hướng đến. Dù trong bất kì giai đoạn nào, mỗi nhà văn đều tìm tòi, khám phá và dành nhiều trang văn của mình để viết về người phụ nữ.

Có thể thấy, tiêu biểu và thành công nhất khi viết về đề tài người phụ nữ đó là hình ảnh người vợ nhặt của Kim Lân và Chí Phèo của Nam Cao. Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này có những điểm chung của người phụ nữ Việt Nam đồng thời mang những nét rất riêng và độc đáo.

Kim Lân là nhà văn chuyên về nông thôn, những điều gần gũi, mộc mạc và giản dị, gần gũi với người nhân. Truyện ngắn ”Vợ nhặt” của Kim Lân tái lại nạn đói thê thảm người nông dân nước ta năm 1945, đồng thời thể vẻ đẹp tình người sức sống kì diệu họ: bờ vực chết, họ hướng sống, khát khao tổ ấm gia đình thương yêu đùm bọc lẫn.

Xem Thêm : Đề kiểm tra học kì I lớp 7 môn Địa Lí – Đề số 2

Nội dung nhân đạo sâu sắc cảm động thể hiện qua tình tiết truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí tinh tế, dựng đối thoại sinh động. Không chỉ thành công với nhân vật Tràng, tác phẩm còn để lại người đọc nhiều suy nghĩ, trăn trở đối với nhân vật Thị. Thông qua nhân vật Thị, ta càng thấu hiểu và cảm thông hơn tình cảnh của người phụ nữ giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.

Song song cùng với Thị, Thị Nở của Nam Cao cũng có một số phận bất hạnh không kém. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo mà đầy lương thiện đã bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không cố lối thoát. Thị Nở là một trong những nhân vật trung tâm của tác phẩm, góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.

Nhà văn là người song hành trong cuộc tìm kiếm vẻ đẹp khuất lấp ấy để trân trọng, nâng niu và cảm thông với những nỗi thống khổ của nhân vật. Vậy nên khi so sánh nhân vật Thị và người vợ nhặt ta sẽ hiểu đồng thời khai thác và phân tích rõ nét hơn số phận cũng như nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ ở hai thời kì khác nhau.

Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này đều có một điểm chung đó là cả hai đều có số phận bất hạnh, có những bi kịch riêng của đời mình.

Trước hết, về nhân vật Thị trong tác phẩm vợ nhặt, Thị là một người con gái cố số phận bất hạnh. Thị sống trong thời kì nạn đói đang tràn về khắp xóm ngụ cư. Cái đói qua ngòi bút của Kim Lân khiến chúng ta kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết”.

Không chỉ vậy, cô sẵn sàng theo không Tràng về nhà chỉ qua vài câu nói bông đùa, sẵn sàng theo một người mà cô chẳng biết rõ nhà cửa họ như thế nào. Thị theo Tràng vì đơn giản thì khát khao được sống, khao khát mưu cầu hạnh phúc.

Chết đói là điều cầm chắc, vì vậy Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Đây cũng là những khao khát rất bình dị của tất cả mọi người.. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. thật đáng thương! Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Không chỉ riêng Thị mà Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng có số phận bất hạnh không kém. Thị Nở là người đàn bà xấu xí, dở hơi, lại thuộc dòng họ nhà có hủi. Trong con mắt của người dân làng Vũ Đại, thị là người đáng bỏ đi. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị bởi ngoại hình thô kệch và gia cảnh nghèo. Thị đã phải đi gánh nước thuê để kiếm sống qua từng ngày. Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Và phải chăng ẩn sâu bên vỏ ngoài thô kệch kia là một trái tim ấm nóng, đang từng ngày khao khát yêu và được yêu. Và có lẽ, bất hạnh nhất đời người là bị cả xã hội chối bỏ, chê cười.

So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta không chỉ thấy số phận bất hạnh của họ mà qua đó ta còn thấy được rất nhiều điều tốt đẹp ở hai nhân vật này mà ngòi bút tài tình của nhà văn đã thể hiện được.

Đằng sau vẻ rách rưới, xấu xí của hai nhân vật này là một khát vọng sống mạnh liệt. Nhân vật thị nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu thương, là vẻ đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.

Thị thương Chí, một tình thương xuất phát từ trái tim với lòng cảm thông sâu sắc, không toan tính và vụ lợi. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Cả cuộc đời này, hắn cần Thị – người đàn bà mang đến sự ấm áp…

Đối với Thị, dù dã Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm gia đình, một nơi được bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật- đó là minh chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị.

Thị Nở chính là hiện thân cho sự khao khát tình yêu đôi lứa dung dị, chân thành và đầy mãnh liệt. Đây chính là tình cảm mà Chí vốn luôn khát khao nhưng lại không có được.

Người đọc đã có nhiều ám ảnh với nhân vật Thị Nở của tác giả bởi ngòi bút “nghệ thuật vị nhân sinh” này. Giá trị nhân văn của thiên truyện chính là tấm lòng vị tha, yêu thương và đồng cảm mà Nam Cam đã chăm chút dành cho nhân vật của mình.

So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt – Mẫu 2

Phụ nữa Việt Nam xưa thường phải chịu nhiều định kiến cũng như phải chịu nhiều đau thương của xã hội cũng như chiến tranh. Nhận vật Thị Nở và nhân người vợ nhặt đều là những người phụ nữa phải chịu những đau thương mất mát mà xã hội cũ và chiến tranh gây ra cho họ.

Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế. Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.

Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường cùng.

Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người xung quanh.

Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, nghèo xơ xác. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.Sáng ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.

Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy.