Thời cổ đại người hầu gọi bình thê là gì năm 2024
Hoàng hậu (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, do Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong thế giới đồng văn Đông Á, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Show
Hoàng hậu nắm giữ đại quyền hậu cung, là người duy nhất được cử hành nghi thức đại hôn với Hoàng đế. Phi tần có con trai được phong Thái tử cũng không thể trở thành Hoàng hậu nếu như chính thất Hoàng hậu của Hoàng đế vẫn còn tại vị, chỉ được tôn làm Hoàng thái hậu sau khi con lên ngôi và nhận thụy hiệu Hoàng hậu sau khi mất. Trong ngôn ngữ Việt Nam, [Hoàng hậu] thường chỉ chung [vợ của Vua], từ Quốc vương đến Hoàng đế. Trên thực tế, vợ của Quốc vương gọi là Vương hậu (王后), chữ 「Vương; 王」tiếng Trung đọc hơi giống chữ 「Hoàng; 皇」nên mới xảy ra hiểu lầm. Ngoài ra nhiều người nhầm lẫn Nữ hoàng (女皇) với Hoàng hậu. Điều này khá sai lệch, vì danh xưng Nữ hoàng dùng để chỉ Hoàng đế nữ của một quốc gia (như Lý Chiêu Hoàng của lịch sử Việt Nam hay Võ Tắc Thiên của lịch sử Trung Quốc), không phải vợ của Hoàng đế nam. Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Đông Á[sửa | sửa mã nguồn]Thời cổ Trung Hoa, các vị thủ lĩnh bộ tộc được gọi là Hậu (后), do đó các vua cổ đại khi còn sống thì gọi là Hậu như Hậu Nghệ hoặc Hậu Tắc, khi qua đời thì gọi là Đế (帝). Đến đời nhà Thương, các vị Vua được gọi là Vương (王), và dùng từ Hậu cho chính thê của Vương, sau này được gọi là Vương hậu để phân biệt với Hoàng hậu. Khi Tần Thủy Hoàng lập ra nhà Tần, ông thiết lập nên danh hiệu Hoàng đế cao quý nhất dành cho quốc chủ của một Đế quốc rộng lớn, thì chính thất của Hoàng đế từ đó cũng được gọi là Hoàng hậu. Đến khi nhà Hán thiết lập, Lưu Bang lập vợ cả của ông là Lã Trĩ làm Hoàng hậu, hình thành truyền thống danh hiệu "vợ Vua" cao quý nhất trong các quốc gia Đông Á. Nhà Hán thành lập chư hầu mang tước Vương, các chính thê của một Vương chỉ có thể gọi là Vương hậu, còn danh hiệu Hoàng hậu chỉ có thể dùng để gọi chính thê của một Hoàng đế. Hoàng hậu hiện nay của Nhật Bản là Masako. Trước đó, Michiko, là Hoàng hậu đúng nghĩa duy nhất trên thế giới (bà trở thành Thượng Hoàng hậu vào ngày 30 tháng 4 năm 2019 sau khi chồng bà là Thượng hoàng Akihito thoái vị cùng ngày). Châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]Chính thê của một quân chủ ngoài Trung Quốc, mang những danh hiệu tương đương với Hoàng đế như Sa Hoàng của Đế quốc Nga, Hoàng đế La Mã thần thánh của Thánh chế La Mã; hay Thiên hoàng của Nhật Bản, cũng đều được gọi là Hoàng hậu, tức [Empress]. Dựa theo tiếng Pháp, nó được ghi là [Imperatrice]. Vốn dĩ, từ [Empress] trong tiếng Anh là dạng nữ hóa của [Emperor; Hoàng đế], tức Nữ hoàng - người phụ nữ trị vì một Đế quốc hoặc Hoàng triều (nghĩa của từ [Empress] là "người phụ nữ quyền lực nhất"). Sang Châu Á, từ này được dùng luôn cho Hoàng hậu, vợ của Hoàng đế dù giữa Nữ hoàng và Hoàng hậu có sự khác biệt lớn. Sau này, văn học thêm từ [Consort; tức "hậu phi"] đằng sau danh hiệu [Empress] để phân biệt Hoàng hậu với Nữ hoàng, nên Hoàng hậu được gọi đầy đủ là [Empress Consort]. Các quốc gia hiện tại, như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Thái Lan, Thụy Điển,... đều chỉ là Vương quốc, các quốc chủ xưng [Vương; King], do đó phối ngẫu của họ chỉ có thể gọi là Vương hậu hoặc Vương phi (dịch từ danh hiệu Princess Consort). Những tước vị đăng đối[sửa | sửa mã nguồn]Danh vị [Hoàng hậu] có thể dịch đối với một số tước vị tương tự, vợ của các quốc chủ thuộc những quốc gia thuộc các nhóm Trung-Nam Á hoặc Đông Âu khác. Ví dụ:
Vai trò[sửa | sửa mã nguồn]Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]Trong truyền thống Đông Á nói chung và ở Trung Quốc nói riêng, Hoàng hậu được tôn kính bậc nhất chỉ sau Hoàng đế, mặc dù hầu hết quốc gia Châu Á không cho Hoàng hậu tham gia chính trị (gọi là "Hậu cung bất can chính"). Việc sách lập Hoàng hậu đối với các triều đình Đông Á và cả các quốc gia Tây phương đều được xem là chuyện quốc gia đại sự. Do lẽ đó, việc phế truất một Hoàng hậu cũng can dự đến ảnh hưởng chính trị, đặc biệt là sự tồn vong của ngoại thích. Trên nguyên tắc, Hoàng đế là người thống trị tối cao của một Đế quốc, mà Hoàng hậu là đứng đầu hậu cung, do vậy địa vị hoàn toàn khác với phi tần. Nói cách khác, Hoàng hậu được coi là chủ nhân của các phi tần. Hoàng Hậu ở lễ nghi cùng Hoàng đế bình đẳng, ra cùng xe, nhập cùng tòa. Vào thời nhà Hán, đơn vị phục vụ Hoàng hậu gọi là Hoàng hậu Tam khanh (皇后三卿), phụ trách quản lý hậu cung, lý luận với Hoàng đế số lượng Tần ngự. Hậu cung có bao nhiêu Nữ quan, Cung nữ đều dưới quyền quản lý của Hoàng hậu. Bên cạnh công việc hậu cung, Hoàng hậu cũng quản lý các vấn đề trong Phủ của các Hoàng tử, do đó cũng nhận được triều kiến của các Hoàng tử phi, hoặc Mệnh phụ phu nhân bên ngoài triều. Nhiều triều đại quen lấy Hoàng hậu là tấm gương, gọi là 「Phụ nữ phong phạm đích Biểu suất; 婦女風範的表率」 Các vị Hoàng tử do Hoàng hậu sinh ra được gọi là Đích tử (嫡子), thân phận cao quý hơn các Hoàng tử của phi tần và cũng là ứng cử viên sáng giá cho ngôi vị Hoàng thái tử của Hoàng đế. Các Hoàng nữ do Hoàng hậu sinh cũng là Đích công chúa (嫡公主), được hưởng của hồi môn và quy tắc thông thường đều hơn các Hoàng nữ là con gái của phi tần. Hoàng hậu còn là [Hoàng đích mẫu; 皇嫡母] của những người con do các vị phi tần khác sinh. Do Hoàng hậu là Đích mẫu của tất cả Hoàng tử và Hoàng nữ nên tất cả con của Hoàng đế đều gọi Hoàng hậu là Mẫu hậu (母后), gọi Sinh mẫu là Mẫu phi (母妃) hoặc Mẫu thân (母親). Thời nhà Thanh, con của Hoàng đế gọi Hoàng hậu tức Đích mẫu là Hoàng hậu Ngạch niết (皇后額捏), còn Sinh mẫu chỉ được gọi Ngạch niết (額捏). Từ "Ngạch niết" này qua chữ Hán chính là "Mẫu phi", như Ung Chính Đế gọi Nghi phi là "Nghi phi mẫu phi", hoặc Càn Long Đế gọi Thuần Khác Hoàng quý phi là "Dụ Quý phi mẫu phi", Gia Khánh Đế gọi Uyển Quý phi là "Uyển Thái phi mẫu phi" (Xem chi tiết ở bài Hậu cung nhà Thanh). Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]Trong lịch sử Việt Nam, danh hiệu Hoàng hậu chỉ chính thức ghi chép từ thời nhà Đinh. Sau 3 triều Đinh - Tiền Lê - Lý đều lập nhiều Hoàng hậu, thì nhà Trần và nhà Hậu Lê về sau chỉ lập duy nhất một Hoàng hậu tại vị. Triều đại nhà Nguyễn, phỏng theo lệ thời Lê Sơ, rất ít khi quyết định lập Hoàng hậu, cao nhất chỉ là Hoàng quý phi. Tuy nhiên, nhà Nguyễn cũng có Hoàng hậu sắc phong khi còn sống, đó là trường hợp của 3 vị: Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống thị, Lệ Thiên Anh hoàng hậu Vũ thị và Nam Phương hoàng hậu Nguyễn Hữu thị, cả ba đều được phong danh vị Hoàng hậu khi còn sống. Đặc biệt là Lệ Thiên Anh hoàng hậu, bà là nguyên phối của Tự Đức Đế, được di chiếu tôn làm Hoàng hậu, Hiệp Hòa kế vị đã theo di chiếu, cộng gọi nơi ở (khi ấy bà đang ở Khiêm lăng) nên gọi là 「Khiêm Hoàng hậu; 謙皇后」. Bà trở thành Hoàng hậu đặc biệt, khi được tấn phong Hoàng hậu dù chồng đã qua đời. Ngoài ra tại Việt Nam, một số vị nữ thần cũng được dân gian tôn phong hoặc triều đình sắc phong với danh hiệu Hoàng hậu. Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]Quân chủ của Hoàng gia Nhật Bản tự xưng Thiên hoàng, vợ của Thiên hoàng là Hoàng hậu (Kōgō; こうごう). Từ thời Heian, danh vị Hoàng hậu đôi khi còn gọi là Trung cung (Chūgū; 中宮; ちゅうぐう), vì Thiên hoàng Murakami lập Nữ ngự Fujiwara no Anshi (藤原安子; Đằng Nguyên An Tử) làm Trung cung, đồng vị với Hoàng hậu. Về sau, Thiên hoàng Ichijō bị Fujiwara no Michinaga ép buộc, khai sinh ra 「Nhất Đế nhị Hậu; 一帝二后」, liền đem Trung cung tách ra khỏi Hoàng hậu thành một danh vị riêng biệt, trở thành một danh vị ngang bằng với Hoàng hậu, tạo nên hiện trạng Thiên hoàng có thể có hai chính phối. Theo đó thành lệ, các vị Thiên hoàng thường lập nguyên phối làm Trung cung trước, nếu về sau vị chính phối thứ hai được lập, thì đem vị Trung cung đã lập từ trước chính thức sách lập làm Hoàng hậu, và lập vị chính phối thứ hai làm Trung cung. Từ trung kỳ thời Heian đến Thời kỳ Kamakura, danh hiệu Hoàng hậu trở thành một loại vinh hàm, thỉnh thoảng dùng để phong cấp cho các Cô mẫu cùng các Chuẩn mẫu của Thiên hoàng hoặc các Nội thân vương chưa lập gia đình. Đó là từ cổ ngôn trong hoàng thất Nhật Bản: 「非天皇配偶或血親者也可宣下為后; "Phi Thiên hoàng phối ngẫu hoặc huyết thân giả dã khả Tuyên hạ vi Hậu"」, có nghĩa là dẫu trên thực tế không phải thê tử của Thiên hoàng vẫn có khả năng tôn xưng làm Hoàng hậu. Nếu chỉ là tôn xưng, thì người được tôn xưng không cần phải thực hiện chức trách của một Hoàng hậu, mà chỉ hưởng đãi ngộ và quyền lực của Hoàng hậu hoặc Trung cung mà thôi. Khi đó, Thiên hoàng Horikawa băng ngự khi mới 29 tuổi, kế vị là Thiên hoàng Toba, còn quá nhỏ tuổi (mới 4 tuổi), vì vậy trong huấn mệnh của Thiên hoàng Shirakawa, đã mệnh lệnh Lệnh Tử Nội thân vương (令子內親王) làm Hoàng hậu. Từ đó, Hoàng thất Nhật Bản khai sinh ra thời kì Hoàng hậu với Thiên hoàng có thể không phải vợ chồng mà là cô cháu, chị em hoặc anh em. Đó gọi là chế độ 「Hoàng hậu cung; 皇后宮」 Do vấn đề tiền tài cho việc sắc lập Hoàng hậu lẫn Trung cung, từ Thời kỳ Muromachi trở về sau thì Thiên hoàng hầu như không lập Hoàng hậu và Trung cung nữa. Đến thời Edo, con gái của Tokugawa Hidetada là Tokugawa Masako (徳川和子; Đức Xuyên Hòa Tử) trở thành vợ của Thiên hoàng Go-Mizunoo, vì để duy trì thể diện nên Mạc phủ Edo tăng tiền cung cấp phí sinh hoạt cho triều đình, đã có thể sắc lập Tokugawa Masako làm Hoàng hậu. Dù vậy, hoàng gia Nhật Bản thời Edo vẫn duy trì truyền thống chỉ lập Nữ ngự (女御; にょうご) là vị trí tôn quý nhất, nguyên nhân chính vẫn là do vấn đề kinh tế hoàng gia. Hàn Quốc và Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]Trong lịch sử Hàn Quốc, nhà Cao Ly và nhà Triều Tiên không xưng Hoàng đế, nên các chính thê chỉ là Vương hậu hoặc Vương phi. Thời Triều Tiên, hậu cung của Quốc vương được gọi là Nội mệnh phụ. Đứng đầu Nội mệnh phụ là Vương phi, hay được giản xưng gọi là Trung điện. Sau khi qua đời, các Vương phi sẽ được truy phong thành Vương hậu. Triều Tiên Vương phi đối với quản lý hậu cung có quyền lực rất cao, thậm chí cả Quốc vương lẫn Vương đại phi cũng không thể tự tiện can thiệp công việc của Vương phi, ngay cả việc sắc phong Tần ngự và định huy hiệu cũng là từ Vương phi định ra rồi ban hạ. Khi Triều Tiên Cao Tông lên ngôi Hoàng đế do chính quyền Nhật Bản bảo hộ, lập nên Đế quốc Đại Hàn. Để ứng với danh vị mới Hoàng đế, Cao Tông đã truy tặng cho người vợ Mẫn phi đã quá cố của ông làm Hoàng hậu, đó là Minh Thành Thái hoàng hậu nổi tiếng trong lịch sử. Hoàng hậu duy nhất được sắc phong khi còn sống, và cũng là Quốc mẫu cuối cùng của lịch sử Hàn Quốc là Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu. Các quốc gia Châu Âu và Trung Nam Á[sửa | sửa mã nguồn]Tại Châu Âu, tình trạng Đế quốc tương đối không phổ biến, đáng kể nhất chỉ gồm Đế quốc La Mã, Đế quốc Byzantine, Thánh chế La Mã, Đế quốc Pháp, Đế quốc Áo-Hung, Đế quốc Nga và Đế quốc Đức. Tại các quốc gia này, hôn phối của các [Emperor; Hoàng đế] đều như nhau là [Empress; Hoàng hậu]. Các Hoàng hậu của Đế quốc La Mã có thể được tôn xưng kèm danh vị cao quý của người La Mã, Augusta. Còn các Hoàng hậu của Thánh chế La Mã thường được tôn xưng kèm danh vị [Queen of the Germans; Vương hậu của người Đức], sau là [Queen of the Romans; Vương hậu của người La Mã]; cùng một số tước vị đi kèm của người chồng được bầu cử trở thành Hoàng đế của Thánh chế. Danh vị [Empress] tại các quốc gia này luôn hiện hữu thực tế, không có trường hợp truy phong (tặng tước vị sau khi đã mất) như các quốc gia Đông Á. Địa vị của các [Empress] trong hoàng thất, cũng tương tự như Vương hậu, đều mang tính tượng trưng và đều như nhau không có thực quyền về chính trị. Tuy vậy, sự ảnh hưởng qua hình ảnh ngoại giao, cũng như địa vị cố vấn cho chồng giúp các [Empress] được tôn kính và vị nể trong triều đình hoàng thất. Khi các [Emperor] vắng mặt hoặc còn quá nhỏ tuổi để trị vì, các [Empress] có quyền tạm quyền, gọi là nhiếp chính. Ví dụ như Maria Leopoldina nước Áo nhiếp chính khi chồng bà là Pedro I của Brasil vắng mặt; Hoàng hậu Eugenia xứ Montijo cũng từng nhiếp chính khi chồng bà Napoleon III ủy quyền. Tương tự các quốc gia Châu Âu, các Hoàng hậu của Đế quốc Ottoman cùng Mughal cũng có thể tham gia chính trị thông qua sự ảnh hưởng lên chồng mình. Thể hiện rõ nhất gồm Hurrem Sultan, vợ của Suleiman I và Nur Jahan, vợ của Hoàng đế Jahangir. Vấn đề liên quan[sửa | sửa mã nguồn]Biệt xưng[sửa | sửa mã nguồn]Trong văn thứ các quốc gia đồng văn dùng chữ Hán, có rất nhiều những tên gọi ám chỉ danh vị Hoàng hậu cùng Hoàng thái hậu, do muốn câu văn được uyển chuyển hơn - một yêu cầu của văn thư. Do đó, trong lịch sử cổ điển Hoa Hạ sinh ra rất nhiều biệt xưng nhằm ám chỉ trong câu văn.
Sách lập[sửa | sửa mã nguồn]Hoàng hậu là danh vị cao quý, do Hoàng đế lập nên, gọi là Sách lập (册立). Đây là một sự kiện tối cao và trọng đại của một quốc gia Đông Á. Muốn sách lập Hoàng hậu, phải bày đại lễ, chiếu cáo thiên hạ, khắp chốn mừng vui, đồng thời còn có nghi thức long trọng hạng nhất chính thức lập Hậu. Ngoài lấy Chiếu thư (诏书) ban cáo thiên hạ, còn phải có Kim sách (金册) lẫn Ấn chương (印章) làm tín vật, khi ấy mới chính thức hóa vị trí Hoàng hậu của người được sách lập. Nếu Hoàng đế trước khi đăng cơ đã có chính thất, thì thông thường đều trực tiếp phong chính thất làm Hoàng hậu. Một số trường hợp cá biệt, đa phần do gia thế của chính thất kèm theo tình hình chính trị, mà chính thất chỉ là phi tần, sau mới được lập Hậu, như Cung Ai hoàng hậu của Hán Tuyên Đế, Quang Liệt Âm Hoàng hậu của Hán Quang Vũ Đế hay Chính thất Chân phu nhân của Tào Ngụy Văn Đế. Định số[sửa | sửa mã nguồn]Trung Quốc lịch đại Hoàng đế, coi Càn-Khôn là một đôi, cho nên Hoàng đế chỉ thường có một Hoàng hậu. Nhưng thực tế trong lịch sử Trung Quốc, có một số triều đại do người Hồ lập nên, mô phỏng chính quyền Trung Hoa nhưng lại phá vỡ quy tắc một vợ một chồng trên danh nghĩa, do đó thường có hơn một Hoàng hậu cùng được sách phong. Tiêu biểu là Hán Triệu Chiêu Vũ Đế có 9 vị Hoàng hậu, trong cùng một thời gian có nhiều hơn một Hoàng hậu tại vị. Còn có Bắc Chu Tuyên Đế lập một lúc 5 vị Hoàng hậu, hay Bắc Tề Hậu Chủ luôn có 2 Hoàng hậu tại vị song song. Đến thời nhà Nguyên, các hoàng đế đều có rất nhiều Hoàng hậu, duy chỉ Chính thất Hoàng hậu (hay "Hoàng chính hậu") được nhận sách bảo và có lễ thứ khác biệt. Các Hoàng đế Việt Nam vào thời gian đầu đều lập nhiều Hoàng hậu cùng lúc. Như Đinh Tiên Hoàng lập 5 Hoàng hậu; Lê Đại Hành lập 5 Hoàng hậu, Lê Long Đĩnh lập 4 Hoàng hậu. Không dừng lại ở đó, về sau Lý Thái Tổ lập 9 Hoàng hậu, Lý Thái Tông lập 8 Hoàng hậu, Lý Thánh Tông cũng lập 8 Hoàng hậu, Lý Nhân Tông trước lập 2 Hoàng hậu, sau lập thêm 3 người nữa, Lý Thần Tông lập 3 Hoàng hậu,...đến đời Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông mới không thấy như vậy nữa. Sử gia Lê Văn Hưu nói về việc này: “ 天地並其覆載日月並其照臨故能生城萬物發育庶類亦猶皇后配儷宸極故能表率宫中化成天下自古秪立一人以主内治而已未聞有五其名者先皇無稽古學而當時帬臣又無匡正之者𦤶使溺私並立五后下至黎李二家亦多效而行之由先皇始唱其亂階也 . Trời đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi, mới sinh thành muôn vật, nảy nở mọi loài, cũng như Hoàng hậu sánh với ngôi Hoàng đế, cho nên mới có thể đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho thiên hạ. Từ xưa chỉ lập (Hoàng hậu) một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời lại không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nổi chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 Hoàng hậụ Sau đến 2 triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy. ” — Đại Việt sử ký toàn thư - Kỷ nhà Đinh, Tiên Hoàng Đế Tôn phong[sửa | sửa mã nguồn]Trưởng bối[sửa | sửa mã nguồn]Theo thường lệ, một Hoàng hậu tại vị không có huy hiệu nào. Về sau, Tống Thái Tông lấy niên hiệu Khai Bảo của Tống Thái Tổ để dâng cho Hoàng hậu Tống thị, tức là Khai Bảo hoàng hậu. Cuối cùng, nhà Minh tạo ra cách thức hoàn thiện cho trường hợp này, khi đó Hoàng đế kế nhiệm sẽ chọn 2 chữ huy hiệu dâng cho Hoàng hậu ấy, đó chính là trường hợp của Ý An hoàng hậu. Khi Hoàng đế nhường ngôi về làm Thái thượng hoàng, thì Hoàng hậu sẽ trở thành Thái thượng hoàng hậu. Tuy nhiên, một số trường hợp ở Trung Quốc, Hoàng hậu của Thái thượng hoàng vẫn giữ danh xưng Hoàng hậu như Thành Túc Hoàng hậu của Tống Hiếu Tông, hay Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu của Minh Anh Tông. Trong hậu cung Việt Nam, một số Hoàng hậu của Thái thượng hoàng vẫn được tôn Hoàng thái hậu như trường hợp Bảo Thánh hoàng hậu của Trần Nhân Tông. Khi Hoàng đế qua đời (gọi là Tiên đế) thì sẽ có 3 trường hợp chính xảy ra:
Trong lịch sử Việt Nam có một số trường hợp đặc biệt thời nhà Nguyễn. Do tính chất lịch sử của triều đại nhà Nguyễn, khi Hoàng tử lên ngôi sẽ có các trường hợp:
Cùng bối phận[sửa | sửa mã nguồn]Trường hợp Tiên đế là anh/em ruột hoặc anh/em con chú bác với Hoàng đế kế nhiệm cũng khá phổ biến. Khi này, Hoàng hậu của Tiên đế là [Hoàng tẩu], không phải Mẫu hậu của Hoàng đế nên không tôn Hoàng thái hậu mà giữ ngôi Hoàng hậu, song đặt huy hiệu riêng để phân biệt với Hoàng hậu vợ Hoàng đế. Điển hình là Hiếu Huệ Trương Hoàng hậu của Hán Huệ Đế, dưới thời Hán Văn Đế, bà được ban ở Bắc cung nên gọi [Bắc Cung Hoàng hậu; 北宮皇后] để phân biệt với Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu. Tương tự thời nhà Thanh, Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu của Đồng Trị Đế cũng được tôn [Gia Thuận Hoàng hậu; 嘉顺皇后] khi Quang Tự Đế vừa lên ngôi. Cũng có vài vị hoàng tẩu chưa từng làm Hoàng hậu khi chồng còn sống, đến khi em chồng đăng cơ vẫn được gia tôn Hoàng hậu như Sùng Nghĩa Hoàng hậu, chị dâu Bắc Chu Vũ Đế hay Văn Tương Hoàng hậu, chị dâu Bắc Tề Văn Tuyên Đế. Tại hậu cung nhà Nguyễn, Lệ Thiên Anh hoàng hậu, chị dâu của Hiệp Hòa, được Hiệp Hòa thuận theo di chiếu của Tự Đức tôn làm Hoàng hậu, gọi là [Khiêm Hoàng hậu; 謙皇后]. Khác với vợ Hoàng đế, các vị hoàng tẩu được xem là cựu Hoàng hậu, chỉ có danh xưng mà không có thực quyền như một Hoàng hậu đương nhiệm, sống an phận trong cung thờ phụng chồng đến hết đời. Truy phong[sửa | sửa mã nguồn]"Truy phong", "truy thụy", "truy điệu" hay "truy tặng" là các cụm từ chỉ hành động phong [thụy hiệu] (posthumous title; 谥号) cho người đã khuất. Trên thực tế, khá nhiều sinh mẫu của Hoàng đế chỉ là phi tần khi còn sống. Do đó sau khi lên ngôi, trừ trường hợp "nhập tự", các Hoàng đế đều theo tư tưởng "lấy hiếu vị Thiên" truy tôn người mẹ quá cố làm Hoàng hậu (hay Hoàng thái hậu), với điều kiện vị Hoàng thái hậu chính danh đã qua đời. Trường hợp Đế mẫu đầu tiên được truy tôn Hoàng thái hậu là Triệu tiệp dư, mẹ Hán Chiêu Đế, tuy nhiên không có thụy hiệu Hoàng hậu. Về sau Hán Hòa Đế truy thụy [Cung Hoài Hoàng hậu; 恭懷皇后] cho sinh mẫu Lương thị, bắt đầu tiền lệ Đế mẫu luôn nhận thụy hiệu Hoàng hậu. Một số ít dưỡng mẫu của Hoàng đế cũng được tôn Hoàng thái hậu và có thụy hiệu Hoàng hậu dù không phải chính thất của Tiên đế như Bảo Khánh Hoàng thái hậu, mẹ nuôi Tống Nhân Tông hay Khang Từ Hoàng thái hậu, mẹ nuôi Hàm Phong Đế. Trường hợp khác là Hoàng đế truy phong chính thất đã mất trước khi họ đăng cơ, như Thái Mục Đậu hoàng hậu của Đường Cao Tổ... Cũng có trường hợp hiếm hoi phi tần không phải Hoàng hậu hay chính thất, cũng không sinh Thái tử kế vị nhưng được Hoàng đế sủng ái và phá lệ truy tặng như Hiếu Vũ Hoàng hậu của Hán Vũ Đế; Trinh Thuận Hoàng hậu của Đường Huyền Tông; Ôn Thành Hoàng hậu của Tống Nhân Tông hay Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu của Thuận Trị Đế. Phế hậu và tái hôn[sửa | sửa mã nguồn]Hoàng hậu cũng có thể bị phế bỏ, tước đi hậu vị, thường gọi là Phế hậu (廢后). Trong lịch sử có rất nhiều Hoàng hậu bị phế vì nhiều nguyên nhân khác nhau, như Hoàng đế nguội lạnh tình cảm với Hoàng hậu, Hoàng hậu không sinh được Đích tử, gia đình hay bản thân Hoàng hậu phạm lỗi đều khiến Hoàng đế muốn phế truất... Đa phần sau đó Hoàng đế lập phi tần được sủng ái làm Kế hậu. Sau khi bị phế, Hoàng hậu thường bị biếm làm thứ nhân, giam cầm trong tẩm cung hoặc cung điện biệt lập nào đó, hoặc bị cưỡng chế xuất gia. Trường hợp may mắn hơn thì theo con trai sang đất phong sinh sống (như Quang Vũ Quách Hoàng hậu của Hán Quang Vũ Đế), hoặc hạ xuống bậc phi tần rồi tiếp tục ở trong cung (như Bát Nhĩ Tề Cát Đặc Phế hậu của Thuận Trị Đế). Thực tế, hầu hết các phế hậu không thể xuất cung mà đều bị giam lỏng hoặc ban pháp hiệu và bị ép tu hành. Một số ít bị ban chết, nhưng thường là do phạm đại tội. Phế hậu không thể tự do tái hôn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp vì lý do chính trị đặc biệt, cũng có trường hợp Hoàng hậu tái hôn với các Hoàng đế của triều đại mới lập nên. Thời Đông Tấn, Dương Hiến Dung là Hoàng hậu của Tấn Huệ Đế, sau lại trở thành Hoàng hậu của Tiền Triệu Mạt Đế Lưu Diệu. Ở Việt Nam, Lý Chiêu Hoàng là trường hợp đặc biệt này, bà bị Trần Thái Tông phế truất vì không thể sinh được Đích tử, sau bị ban tái hôn cho một tùy tướng tên Lê Phụ Trần. Một số người nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]Hoàng hậu đầu tiên của Đế chế La Mã, Livia Drusilla.Hoàng hậu quyền lực nhất của Đông La Mã, Theodora.Hoàng hậu cuối cùng của Đông La Mã, Maria xứ Trebizond.Hoàng hậu đầy quyền lực của Thánh chế La Mã, Maria Theresia.Marfa Samuilovna Skavronskaya, Hoàng hậu đầu tiên của Đế quốc Nga, sau thành Nữ hoàng với tên gọi Yekaterina I.Hoàng hậu, sau trở thành Nữ hoàng của Đế quốc Nga, Yekaterina.Hoàng hậu Sisi, vị Hoàng hậu nổi tiếng của Đế quốc Áo.Victoria, Vương nữ Vương thất và Hoàng hậu nước Đức, con gái của Victoria của Anh.Võ Tắc Thiên - Hoàng hậu và Nữ hoàng đế của Trung Quốc.Uyển Dung, vị Hoàng hậu cuối cùng của nhà Thanh.Đại Thắng Minh hoàng hậu, hay được biết đến là Dương Vân Nga.Nam Phương hoàng hậu, vị Hoàng hậu cuối cùng của nhà Nguyễn và lịch sử Việt Nam.Thần Công hoàng hậu, vị Hoàng hậu chiến binh theo truyền thuyết Nhật Bản.Hoàng hậu Michiko, vợ của Thiên hoàng Akihito.Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu, vị Hoàng hậu duy nhất của Đế quốc Đại Hàn.Đế quốc La Mã[sửa | sửa mã nguồn]
Thánh chế La Mã[sửa | sửa mã nguồn]
Đế quốc Nga[sửa | sửa mã nguồn]
Đế quốc Áo[sửa | sửa mã nguồn]
Đế quốc Đức[sửa | sửa mã nguồn]
Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]
Đại Hàn[sửa | sửa mã nguồn]
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
|