Thuở sơ khai đầu tiên con người đã tạo ra chiếc máy ảnh đầu tiên đủ nhỏ để mang đi vào năm nào?

Mời các bạn xem đoạn clip tóm lược lịch sử máy chụp ảnh trong 5 phút. Đoạn video khá thú vị, sử dụng hình ảnh và có dẫn giải từ sự ra đời của chiếc máy ảnh, trải qua lịch sử nhiều đời máy ảnh với rất nhiều đóng góp của nhiều người, cho đến thời đại máy ảnh số, máy ảnh không gương lật và cả điện thoại. Sẵn giới thiệu đoạn video này, mình sưu tập từ wikipedia thêm một ít thông tin về lích sử ra đời và phát triển của máy ảnh.

Và đoạn dài dòng dành cho bạn nào thích tìm hiểu thêm:

Tiền thân của máy ảnh là "phòng tối" [camera obscura - các loại máy ảnh của bây giờ được coi là một sự phát triển từ những “camera obscura” tiếng Latin obscura có nghĩa là “phòng tối”]. Từ xưa, người ta đã nhận thấy khi ánh sáng đi qua lỗ trống đi vào một buồng tối có thể tạo ra ảnh đảo ngược trên một bề mặt. Aristote từng miêu tả việc quan sát nhật thực một phần vào năm 330 trước công nguyên bằng cắch nhìn ảnh của Mặt Trời chiếu qua khoảng trống giữa lá cây. Vào thế kỉ thứ 10, học giả người Ả Rập Idn al-Haytham [Alhazen] cũng viết về việc quan sát nhật thực qua một cái lỗ nhỏ. Ông cũng miêu tả khả năng làm cho hình ảnh rõ nét hơn khi thu nhỏ lỗ nhỏ.

Vào thế kỉ 15, các họa sĩ và các nhà khoa học sử dung hiện tượng này trong việc quan sát. Đầu tiên, người quan sát phải đi vào trong một căn phòng có một lỗ nhỏ trên tường. Ở phía tường đối diện, người ta quan sát có thể nhìn thấy ảnh đảo ngược. Thuật ngữ camera obscura ["phòng tối"] này được đặt bởi nhà toán học, thiên văn học Johannes Kepler trong cuốn "Ad Vitellionem pallipparalipomena" vào năm 1604.

Máy ảnh hiện nay đã trở thành một vật không thể thiếu trong đời sống con người. Vậy hãy cùng tìm hiểu hành trình đi đến chiếc máy ảnh hiện đại như ngày nay nhé!Tiền thân của chiếc máy ảnh hiện nay là “buồng tối” [camera obscura]. Từ thế kỷ XI, chiếc máy ảnh đầu tiên đã được định hình. Thiết bị có tên “buồng tối” này đã được hình thành từ thời cổ xưa của người Trung Hoa và Hy Lạp cổ. Nó sử dụng một cái ống hoặc một cái lỗ kim để chiếu hình ảnh đảo ngược của cảnh vật bên ngoài lên một bề mặt.

NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN

Chiếc máy ảnh đầu tiên được xuất hiện vào thế kỷ 11, khôngai biết chính xác ngày tháng năm nào nhưng nó được coi là dấu ấn quan trọng.Máy ảnh thời này có cấu tạo khá đơn sơ và khác xa so với những chiếc máy ngàynay. Đó là một cái hộp rỗng khá lớn có ống hoặc lỗ nhỏ trên thân để ghi lạihình ảnh theo hướng lộn ngược lên trên một bề mặt bên trong chiếc hộp rỗng. Tấtcả đều được hình thành dựa trên những thiết bị khá cổ xưa đã có từ thời cổ đại ở Trung Hoa và Ai Cập.

Năm 1568, Danielo Barbaro đã chế tạo ra chiếc máy ảnh có khả năng thay đổi đường kính để ảnh được rõ nét hơn.

Đến năm 1802, Gamphri Devid và Tomas Edward dùng cách in tiếp xúc đã tạo ra bức ảnh trên một loại giấy đặc biệt, nhưng độ bền của chúng khá kém.Vào năm 1816, Zozep Nips đã chế tạo được một chiếc máy ảnh kiểu hộp có thể thu được ảnh âm bản.

Năm 1835, ông William Talbot là người đầu tiên làm được dương bản từ ảnh âm, đồng thời những bức ảnh thu được cũng rất nét.

Đến năm 1839, Luis Dage công bố phát minh về quá trình định vị ảnh lên các miếng bạc. Thời gian tiếp theo, rất nhiều người đóng góp công sức và ý tưởng trong quá trình hoàn thiện chiếc máy ảnh.

Và những chiếc máy ảnh film hiện đại đã thực sự xuất hiệnvào năm 1888. Eastman Dry Play and Film là hãng đi tiên phong trong việc phát hành những chiếc máy ảnh kiểu này. Tất cả chúng đều ở dạng hộp rỗng với một ống kính ngắm, bên trong là những cuộn phim với 100 tấm phim có độ rộng 6cm mỗi cạnh hình vuông. Cứ mỗi lần chụp hết phim, máy sẽ được mang tới hãng để lấy các cuộnphim ra và tiến hành in tráng mới thành ảnh.

Năm 1975 tiếp tục chứng kiến sự ra đời của công nghệ nhiếp ảnh kỹ thuật số. Chiếc máy kỹ thuật số đầu tiên được sáng chế bởi Steven Sasson, mộtnhân viên của hãng Kodak. Máy lưu ảnh không phải bằng những tấm phim mà bằng bộ tích điện kép [sau này chính là cảm biến CCD], hình ảnh sẽ được lưu vào những cuộn băng cassette dưới dạng kỹ thuật số. Trên thực tế, loại cảm biến CCD nàyđã được phát minh vào năm 1973 bởi một kỹ sư có tên Fairchild Semiconductor. Vàchính Steven Sasson là người đã nảy ra ý tưởng dùng cảm biến CCD để lưu ảnhthay cho những cuộn phim thông thường.

Chiếc máy ảnh kỹ thuật số ban đầu nặng tới 3.6kg và có độphân giải chỉ 10MP. Thời gian chụp mỗi tấm ảnh mất tới 23s cho mỗi tấm.Tuynhiên, càng về sau Steven Sasson đã càng hoàn thiện sản phẩm của mình bằng cách thu gọn tối đa kích thước và phần cứng bên trong. Cũng chính sản phẩm này về sau đã đặt dấu chấm hết cho đế chế ảnh phim mà Kodak đã từng thống trị trong thời gian dài. 

Tới năm 1981, chiếc máy ảnh kỹ thuật số với kiểu dáng trônggiống như các ảnh ngày nay là Sony Magica được chính thức xuất hiện. Các hãngkhác vẫn tiếp tục nghiên cứu về công nghệ kỹ thuật số và vào năm 1984, Canon đãchính thức giới thiệu máy ảnh chụp theo kiểu điện tử Analog.

4 năm sau, vào năm 1988 một chiếc máy kỹ thuật số khác có tên Fuji DS-1P được sử dụng thẻ nhớ ra đời. Mặc dù các thẻ nhớ này phải dùngpin để hoạt động nhưng có thể coi là sự nâng cấp to lớn về mặt lưu trữ. 

Hãng Kodak cũng có một sản phẩm khá nổi tiếng của riêng họ,đó là chiếc Kodak DSC-100 được bán rộng rãi vào năm 1991. Máy có độ phân giảichỉ 1.3MP với mức giá 13.000 USD – một con số không hề rẻ. Một hãng khác làCasio cũng đã tung ra mẫu máy Casio QC-10 vào năm 1995 với việc tích hợp màn hình tinh thể lỏng để theo dõi hình ảnhtrực tiếp trên máy. Năm 1996, model máy ảnh kỹ thuật số dùng thẻ nhớ độc lậpCompact Flash đầu tiên được ra đời, đó là chiếc Kodak DC-25.

Các máy ảnh trong thập niên 90 của thế kỷ trước vẫn liên tụcđược nâng cấp về độ phân giải và các tính năng. Điển hình là chiếc Ricoh RCD-1được ra mắt vào năm 1995 có khả năng chụp ảnh động mà các máy ảnh trước đâykhông làm được. 

Năm 1999, chiếc máy ảnh kỹ thuật số DSLR đầu tiên ra đời làNikon D1 với độ phân giải 2.47MP. Nó là thiết bị đánh dấu chấm hết cho thời đạichụp ảnh phim với cấu tạo tương đương nhưng lại dùng công nghệ lưu ảnh điện tửthay vì những cuộn phim như trước đây. Điều đặc biệt là mức giá 6000 USD của máy khi đó được đánh giá phù hợp với phần lớn các nhiếp ảnh gia lẫn người chơi ảnhcó điều kiện.  

Tới năm 2003, Canon chính thức giới thiệu dòng Digital Rebel với một tên gọi khác là Canon 300D. Máy thực sự được đón nhận nồng nhiệt bởi mức giá dưới 1000 USD và độ phân giải được tăng lên 6MP.

Kể từ đó, các máy ảnh kỹ thuật số vẫn luôn được cải tiến về thiết kế, tính năng cũng như hiệu suất hoạt động để phục vụ tốt nhất cho nhiềunhu cầu khác nhau. Các máy ảnh kỹ thuật số ngày nay cũng được phát triển theo nhiều hướng khác nhau: compact, Micro Four Thirds, DSLR hay Mirrorless càng làm cho người dùng có nhiều lựa chọn đúng với nhu cầu và sở thích của bản thân.

Phát minh máy ảnh trong những năm 1800
[phatminh.com] Những năm 1800 chứng kiến sự xuất hiện của một số mẫu thiết kế máy ảnh. Ngày nay chúng trở thành một dụng tiện nghi và được được sử dụng rãi trên toàn thế giới. Các mẫu thiết kế liên tục được phát triển sau này, cùng với sự phát triển của phim, đã giúp người sử dụng cảm thấy đơn giản hơn so với thưở sơ khai ban đầu.

Chiếc máy ảnh đầu những năm 1800



Thế nhưng, thiết kế chiếc máy ảnh sớm nhất, Obscura, có cấu tạo đơn giản với một ống kính và chiếc hộp. Được giới thiệu vào năm 1558, nó được sử dụng chủ yếu như một công cụ để quan sát hình ảnh một cách rõ nét hơn và ngay lập tức trở thành một hiện tượng. Đầu thế kỷ 19, nhà khoa học William Hyde Wollaston đã trình làng mẫu máy ảnh Lucida. Khi đó, máy ảnh mang thiết bị quang học giúp một số nghệ sĩ xem cảnh, người, hoặc vật ở xa và chuyển hình ảnh lên trên giấy. Sau đó, các nghệ sĩ tiến hành vẽ, kẻ hoặc sơn. Cả máy ảnh Obscura và Lucida mới chỉ cung cấp những hình ảnh mang tính tạm thời.

Các nghiên cứu tiếp sau đó được tiến hành đã cố gắng tìm ra cách ghi hình ảnh lên vật liệu. Năm 1822, nhà nghiên cứu người Pháp Joseph Nicéphore Niépce đã tạo ra những bức ảnh đầu tiên bằng cách sử dụng giấy tráng hóa học để ghi lại những hình ảnh tạm thời. Nghiên cứu sau đó đã được nâng lên một tầm cao khi ông bắt đầu xem xét : bằng cách nào có thể giữ lại những hình ảnh vĩnh viễn lên trên giấy. Năm 1829, một người Pháp khác là Louis-Jacques-Mande Daguerre đã hợp tác với Niépce cùng nghiên cứu và phát triển quá trình tạo ảnh chuẩn. Tuy nhiên, Joseph Niépce đã mất 1833, nhưng Daguerre vẫn tiếp tục công việc. Cuối cùng vào năm 1837, ông đã gặt hái thành công. Sau nhiều năm dài thử nghiệm, Daguerre đã giới thiệu phép chụp hình đage – quá trình đưa những hình ảnh chụp được lên trên giấy [ hình ảnh được tạo ra bằng sự kết hợp hóa chất thủy ngân và bạc].

Chiếc hộp để chụp ảnh


Một phiên bản được cải tiến hơn so với phương pháp chụp hình đage là calotype và được ứng dụng vài năm sau đó. Năm 1940, quá trình calotype cho phép người dùng tạo ra nhiều bản sao ảnh bằng cách sử dụng phương pháp âm và dương bản. Phương pháp mới này là động lực thúc đẩy sự phát triển sử dụng hình ảnh chụp trong các quảng cáo. Không lâu sau đó, vào những năm 1850, các nhiếp ảnh gia thậm chí bắt đầu tiến hành thử nghiệm việc chụp ảnh dưới nước. Cho tới năm 1850, quá trình chụp ảnh vẫn còn rườm rà và cần tới 30 phút tiếp xúc ánh sáng. Năm 1851, Frederick Scott Archer đã phát minh ra quá trình Collodion giúp thời gian tiếp xúc ánh sáng để chụp hình chỉ còn từ 2-3giây. Trước 1871, nhiếp ảnh đã trải qua một quá trình phát triển đáng kể khi tấm kính ảnh được phủ một lớp hóa chất ướt, xử lý hình ảnh ngay tức thì. Quá trình bạc bromua đĩa gelatin khô được phát minh bởi Richard Leach Maddox giúp không cần phải xử lý các âm bản ngay lập tức. Đây là một phát minh quan trọng vì từ đó, hình ảnh không nhất thiết phải xử lý ngay tức thì. George Eastman là một nhà tiên phong trong phát triển máy ảnh và nhiếp ảnh. Ông đã tạo ra Kodak vào năm 1888. Ông cùng làm việc với một đội ngũ các nhà khoa học để tạo ra cuộn phim đầu tiên trên thế giới và đưa đến tay đông đảo người tiêu dùng vào năm 1889. Đây chính là cột mốc quan trọng trong ngành giải trí cũng như trong lịch sử truyền thông, bởi sự phát triển phim cuộn chính là tiền đề dẫn tới một phát minh quan trọng khác của Thomas Edison – máy ảnh ghi lại hình ảnh chuyển động vào năm 1891. Những năm 1800 chứng kiến sự mở cửa của các ngành công nghiệp chụp ảnh. Đây chính là giai đoạn đặt nền tảng cho sự phát triển của máy ảnh và ngành công nghiệp chụp ảnh; và thế giới cũng chứng kiến những phát minh quan trọng nhất của thế kỷ trong thời gian này. Ngày nay, chúng ta có thể thấy những mẫu máy ảnh thật đơn giản, cuốn phim trong ngành máy ảnh kỷ thuật số và điện ảnh đã đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng, từ người bình thường đến hầu hết các chuyên gia. Các yếu tố quan trọng sự phát triển xa hơn của máy ảnh có thể kể đến là: độ phân giải lớn hơn cho ngay cả thứ đơn giản nhất; giá của máy ảnh ngày càng giảm; khả năng sử dụng được trong bất kỳ loại điều kiện ánh sáng; tương thích qua với nhiều phần mềm, phần cứng và các loại hình ảnh; giàu màu sắc và giai điệu. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ kỹ thuật số, giá của máy ảnh ngày càng giảm giúp ngay cả trẻ em và thanh thiếu niên có thể tự hào sở hữu những chiếc máy ảnh với chất lượng tốt. Máy ảnh và nhiếp ảnh bắt đầu hướng tới trẻ em và chính điều này mang đến cho ngành công nghiệp máy ảnh một đối tượng khách hàng đông đảo. Và trong suốt chiều dài lịch sử phát triển, đây cũng chính là nổ lực của các nhà nghiên cứu và phát triển nhằm biến việc sử dụng máy ảnh ngày càng trở nên rộng rãi hơn trong xã hội.

Hiện chưa có thảo luận cho chủ đề này!
  Xin chào,
  Mời bạn Đăng nhập hoặc Đăng ký thành viên

Video liên quan

Chủ Đề