Vì sao nói có thể xem kiểm tra đánh giá như một biện pháp cá nhân hóa dạy học

Dạy học phân hóa thông qua cá nhân hóa [Individualization]và cá tính hóa [Personalization]

Khái niệm cá nhân hóa [Individualization] và cá tính hóa [Personalization] thường được sử dụng với ý nghĩa giống nhau trong dạy học phân hóa.

Khái niệm cá nhân hóa [Individualization] và cá tính hóa [Personalization] thường được sử dụng với ý nghĩa giống nhau trong dạy học phân hóa.

Trong khi cả hai khái niệm đều hướng đến đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, chúng lại phục vụ cho những mục đích khác nhau. Với nhiều nhà giáo dục, cuộc tranh luận này có vẻ như thuộc về lĩnh vực ngữ nghĩa học. Tuy nhiên, những khác biệt trong việc ứng dụng thực tiễn của cá nhân hóa và cá tính hóa có thể giúp cải thiện giáo án của giáo viên và có lợi cho việc đáp ứng nhu cầu của tất cả học sinh.

Dạy học phân hóa là thấu kính kiểm tra các công cụ và là nguồn tài nguyên đáp ứng nhu cầu của người học. Các phương pháp cá nhân hóa và cá tính hóa được kì vọng sẽ cung cấp những điều kiện thuận lợi nhất cho sự thành công của học sinh khi đạt được mục tiêu học tập.

Định nghĩa dạy học phân hóa

Bắt đầu với một cấu trúc phổ biến để rồi học chuyên sâu hơn thông qua dạy học phân hóa, đó là cách tốt nhất. Trên thực tế, dạy học phân hóa tập trung vào đáp ứng nhu cầu của tất cả người học, nó bắt đầu thông qua sự đánh giá kĩ năng của họ đang ở mức độ nào. Lorna Earl lí giải rất chính xác mối quan hệ giữa sự đánh giá và phương pháp dạy học phân hóa.

Bà chỉ ra: “Dạy học phân hóa là đảm bảo rằng học sinh thực hiện những nhiệm vụ học tập thích hợp vào thời điểm thích hợp. Một khi bạn có thể dự đoán học sinh nắm được gì, như là “tiếp nhận được” hoặc “đã biết” và cái chúng cần để học, dạy học phân hóa sớm muộn sẽ thành công; đây là một hệ quả tất yếu”.

Dạy học phân hóa trong thực hành: Trực giác và Có chủ đích

Có hai cách tiếp cận trong thực hành dạy học phân hóa: Trực giác và Có chủ đích. Khi sử dụng kết hợp cả hai, sự thực hành hiệu quả và hiệu suất cao của dạy học cá nhân hóa và cá tính hóa sẽ sẽ đạt được.

Dạy học phân hóa theo trực giác xảy ra “trong khoảnh khắc” mà sự hướng dẫn được thực hiện. Giáo viên điều chỉnh dựa trên cách mà học sinh phản hồi – hoặc không phản hồi – lại với giáo án [John McCarthy, Tất cả có thể học: Tài liệu hướng dẫn thực hành dạy học phân hóa]. Một kĩ năng thiết yếu của giáo viên là khả năng điều chỉnh sự hướng dẫn khi học sinh có biểu hiện mất phương hướng hoặc cho những người học tìm kiếm nhiệm vụ không có tính thử thách.

Dạy học phân hóa có chủ đích diễn ra suốt quá trình thực hiện giáo án. Sự chuẩn bị trước cho phép giáo viên “phản ánh và thực thi những yếu tố của dạy học phân hóa trong các bài học, đem đến sự hỗ trợ chiến lược cho việc học tập của học sinh” [John McCarthy, 2017]. Nếu chúng ta biết học sinh có thể phản ứng tiêu cực với tiết học sắp tới hoặc đã học những kĩ năng cần thiết trước đó, vậy thì phương pháp dạy học phân hóa đã chuẩn bị trước dựa trên dữ liệu đánh giá là cần thiết để có những cơ hội thành công tốt hơn cho người học.

Một khi kế hoạch dạy học phân hóa có chủ đích đã xác lập, giáo viên sẽ phải dự đoán các phản hồi cũng như nhu cầu của người học, chẳng hạn như các hoạt động theo mức độ định hướng cho các kĩ năng của học sinh, các phần mềm đồ họa hoặc/ và các cơ hội cho học sinh thể hiện những hiểu biết của chúng.

Cá tính hóa trong dạy học

Sự cá tính hóa trong học tập

Khái niệm học tập cá tính hóa thường được sử dụng. Đó là một cách tiếp cận mà trong đó giáo viên là trung tâm. Giáo viên xem xét hồ sơ đánh giá để xác định các xu hướng nhu cầu phổ quát của một nhóm học sinh, cả lớp hoặc các nhóm nhỏ. Ví dụ, học sinh làm nghiên cứu và viết lách có thể được phân vào các nhóm dựa trên các cấp độ kĩ năng viết, từ liệt kê đến sử dụng dẫn chứng.

Khi dạy học cá tính hóa, giáo viên phát triển các thiết kế hỗ trợ dựa trên hồ sơ học sinh. Học sinh có thể được chọn lựa nhưng thường thì chúng không liên quan đến quá trình thiết kế giáo án của giáo viên. Kiểu tiếp cận mà giáo viên là trung tâm sẽ có ích khi khung chương trình và các điều chỉnh có thể dựa trên đại đa số học sinh cùng chung những nhu cầu phổ biến.

Các trải nghiệm học tập có thể được phân hóa theo nhiều cách:

Cả lớp

Giáo viên cung cấp các phần mềm đồ họa và các công cụ khác cho học sinh dựa trên nhu cầu của chúng, trong khi hướng dẫn một thí nghiệm cho cả lớp. Tiết học cũng có thể bao gồm các phần thảo luận theo nhóm nhỏ hoặc theo cặp, khuyến khích học sinh hỗ trợ nhau làm việc trong tiết học của cả lớp.

Các nhóm nhỏ hoặc cá nhân

Giáo viên thiết kế các hoạt động trung tâm nơi mà học sinh luân phiên nhau thực hiện nhiệm vụ với các ngữ liệu được phát, mỗi ngữ liệu tương ứng với nhu cầu của từng nhóm học sinh. Các hoạt động cũng có thể tạo thêm lựa chọn và thử thách cho học sinh trong không gian lớp học. Giáo viên có thể đi quanh lớp hay tạo tình huống để hỗ trợ các nhóm hoặc cá nhân.

Dựa trên sự lựa chọn

Giáo viên thiết kế và đưa ra các lựa chọn nhất định. Học sinh được quyền chọn, điều này cho phép học sinh chủ động trong những trải nghiệm học tập của chúng.

Những ví dụ khác về dạy học cá tính hóa có thể bao gồm việc đọc theo chỉ dẫn và các nhóm hoặc lớp học toán theo cấp độ. Thông thường, khi chúng ta nghĩ về các kĩ năng sẵn có của học sinh, chúng ta chia chúng dựa trên những kết quả đánh giá. Đây là cách mà giáo viên phân hóa dựa trên những nhu cầu phổ biến. Giáo viên xác định sự ưu tiên và hứng thú học tập của học sinh để thiết kế giáo án và phát triển các bài học.

Trong mỗi trường hợp, khi giáo viên định hướng các hoạt động phát triển, dựa trên các hồ sơ đánh giá, kết quả thường là sự cá tính hóa có chất lượng.

Sự cá nhân hóa trong học tập

Sự cá nhân hóa liên quan mật thiết với người học trong việc cấu trúc kiến thức của chúng. Cô ấy có những kĩ năng và kinh nghiệm sống gì, chúng được ứng dụng như thế nào để xử lí các khái niệm và kĩ năng trong học tập?

Ví dụ, để học sinh thiết kế bài tập về nhà và các tiêu chí đánh giá, với sự hướng dẫn dựa trên tiêu chuẩn học tập từ giáo viên. Bước đầu đơn giản là cho học sinh hai mẫu do giáo viên thiết kế. Sau đó, cho chúng mẫu thứ ba để trống để chúng tự phát triển ý tưởng. Giáo viên nghe các đề xuất của học sinh. Thiết kế có thể được thông qua, sửa đổi và gửi lại cho học sinh để phát triển một ý tưởng mới. Nếu học sinh không được thông qua đề xuất trong một khoảng thời gian đã định, em ấy phải chọn trong các thiết kế của giáo viên.

Cho học sinh tham gia vào bài học hoặc quá trình xây dựng tiêu chí đánh giá làm mất nhiều thời gian hơn nếu xét trong một khoảng ngắn nhưng về lâu dài thì lại tiết kiệm thời gian. Bởi lẽ tính tương tác trong học tập sẽ bền vững hơn khi có sự tham gia của học sinh. Học sinh đóng góp vào quá trình lên kế hoạch học tập, điều này cho phép chúng nêu những ý tưởng mà “chúng” biết là sẽ tạo sự tương tác học tập, gia tăng sự tích lũy và khuyến khích chúng kiên trì đúng chỗ.

Tất cả đều có thể xảy ra vì học sinh chia sẻ quá trình thiết kế bài học cùng giáo viên.

Dạy học phân hóa đáp được nhu cầu của mọi người

Cá tính hóa và cá nhân hóa đều đáp ứng tốt nhu cầu của người học. Trong khi chúng có thể bị tranh cãi bởi những người đề xuất ra chúng, điều đáng nói là đạt được sự phân hóa theo nhu cầu của học sinh. Học tập theo hướng cá nhân hóa cũng mang lại một góc nhìn tương tự, với hi vọng góp phần vào nghiên cứu để cải thiện sự thành công của học sinh. Lựa chọn tốt nhất phụ thuộc vào bầu không khí thoải mái mà giáo viên tạo ra trong quá trình học và học sinh có thể phản hồi tích cực như thế nào.

Cá tính hóa là một lựa chọn phổ biến của giáo viên bởi vì nó có vẻ nhanh hơn trong quản lí và lên kế hoạch với chỉ một người – giáo viên. Người ta có thể cho rằng dạy học cá tính hóa dựa trên kết quả đánh giá có cơ sở sẽ đáp ứng nhu cầu của học sinh ngày này qua ngày khác. Dạy học cá nhân hóa yêu cầu giáo viên sẵn sàng từ bỏ ít nhất là vài quyền kiểm soát trong quá trình dạy học.

Khi một học sinh góp phần vào việc tạo ra cái mà thường gọi là đánh giá thực hành, sẽ không có sự nghi ngờ nào vì giáo viên đã đáp ứng hết rồi. Không cần thuyết phục học sinh rằng trải nghiệm học tập sẽ tốt cho chúng, bởi vì chính chúng đã tham gia tạo nên những lựa chọn.

Lần tới, khi bạn thiết kế giáo án dạy học phân hóa có chủ đích, hãy nghĩ cá tính hóa hoặc cá nhân hóa là cách tiếp cận tốt nhất cho bài học tiếp theo. Dù bạn chọn cách nào, dựa trên một hồ sơ đánh giá sát sao, thì cũng tốt cho học sinh.

Đặng Thanh Hiền dịch

Nguồn://www.teachthought.com/pedagogy/instructional-strategies/differentiation-personalization-individualization/

Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Cỡ chữ Màu chữ:

1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.

Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường [gia đình, cộng đồng và xã hội] để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.

Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:

Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung [kiến thức, kĩ năng] và đánh giá tiếp cận năng lực

STT

Đánh giá theo hướng

tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng

tiếp cận năng lực

1

Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì,...

Nhiều bài kiểm tra đa dạng [giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm…] trong suốt quá trình học tập

2

Nhấn mạnh sự cạnh tranh

Nhấn mạnh sự hợp tác

3

Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học

Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp rèn luyện của học sinh

4

Chú trọng vào điểm số

Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét

5

Tập trung vào kiến thức hàn lâm

Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo

6

Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công nhận

Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh

7

Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua…

Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân

2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng thái độ

Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.

Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.

Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.

3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:

[i] Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học [đánh giá tổng kết] nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học [đánh giá quá trình];

[ii] Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;

[iii] Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;

[iv] Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ [độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị] và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:

- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng [theo định hướng tiếp cận năng lực] từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ [theo định hướng tiếp cận năng lực] của học sinh của cấp học.

- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.

- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.

Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:

a] Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng [năng lực] môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.

b] Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:

[i] Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau [quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...]; lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung [nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...] căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau [đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,...]; thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật [câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...]; tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.

[ii] Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.

[iii] Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh [lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…]; thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan [Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…]. Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,...

Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.

Tài liệu tham khảo

1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.

3. Website: //tusach.thuvienkhoahoc.com.

Gửi email
In trang

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề