Các bệnh lây qua đường tiêu hóa nguy hiểm như thế nào

Các bệnh lây qua đường ăn uống thường gặp và cách xử trí

Cập nhật: 9/9/2019 | 1:28:46 PM

Miệng là con đường “nuôi sống” chúng ta và nó cũng là một trong những hiểm họa gây nên những căn bệnh truyền nhiễm qua đường miệng.

Khi ăn uống không bảo đảm vệ sinh rất dễ bị nhiễm một số bệnh như tiêu chảy, tả, kiết lỵ, thương hàn... Xin giới thiệu với bạn đọc những biểu hiện và biện pháp phòng, chống những bệnh này.

Viêm gan do virut

Bệnh do một nhóm virut viêm gan A và E gây ra. Virut này có trong phân người bệnh và gây ô nhiễm vào nước, đất nếu quản lý nguồn phân không tốt. Virut viêm gan A có thể tồn tại trong thức ăn, nước uống, bể bơi, đồ dùng gia đình, vật dụng sinh hoạt cá nhân, trong môi trường đất, nước... Ở người nhiễm bệnh, virut viêm gan A được tìm thấy trong nước bọt, nước tiểu nhưng nhiều nhất vẫn là trong phân người có bệnh.

Bệnh viêm gan A chủ yếu lây qua đường tiêu hóa (đường phân - miệng), hiếm khi lây qua đường máu vì có rất ít virut viêm gan A trong máu, cụ thể lây qua các đường chính sau: Ăn thức ăn, thực phẩm bị nhiễm mầm bệnh; Uống nước bị nhiễm bệnh, bơi lội trong ao hồ, bể bơi bị nhiễm bệnh; Ăn chung thức ăn, sử dụng chung đồ dùng sinh hoạt cá nhân (vật dụng ăn uống, khăn mặt, khăn tắm, bàn chải đánh răng, xô, chậu...) với người có bệnh.

Virut gây viêm gan A tồn tại nhiều tháng ở nhiệt độ 25oC. Trong nước đá, chúng có thể sống tới 1 năm. Nhiệt độ 100oC trong 5 phút giết chết virut. Người ăn thức ăn có nhiễm virut sau 15-45 ngày xuất hiện các triệu chứng: mệt mỏi, sốt nhẹ, vàng da, vàng mắt, chán ăn, sợ mỡ, đi tiểu ít - nước tiểu vàng, phân bạc màu. Cũng có khi các triệu chứng mệt mỏi, chán ăn chỉ thoáng qua. Virut được thải trừ ra ngoài theo phân trước khi có triệu chứng vàng da từ 10-15 ngày. Bệnh thường gây thành dịch, nhiều người mắc.

Các bệnh lây qua đường tiêu hóa nguy hiểm như thế nào

Để phòng ngừa có hiệu quả các bệnh lây qua đường tiêu hóa cần vệ sinh cá nhân tốt và thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm.

Bệnh tiêu chảy

Thường gặp ở trẻ em. Đi tiêu phân lỏng trên 3 lần/ ngày khiến người bệnh bị mất nước và một số chất quan trọng trong cơ thể. Ở trẻ em, nếu mất nước nhiều có thể tử vong nhanh chóng nếu không được điều trị kịp thời.

Bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm: Bệnh biểu hiện rầm rộ hơn, nguy hiểm hơn. Bệnh nhân nôn nhiều, đi tiêu nhiều, mất nước nhiều, đe doạ tính mạng nếu không được bù nước và can thiệp kịp thời.

Bệnh tả

Là một bệnh truyền nhiễm có các triệu chứng chính là tiêu chảy, nôn ói, mất nước và rối loạn điện giải cấp tính, có thể gây thành dịch lớn với tỷ lệ tử vong cao. Vi khuẩn xâm nhập đường tiêu hóa của người lành từ nước uống và thức ăn có nhiễm vi khuẩn tả, đặc biệt là thức ăn có nguồn gốc thủy hải sản.

Bệnh kiết lỵ

Bệnh lỵ do amíp: Gặp ở người lớn nhiều hơn trẻ em, dễ trở thành mạn tính. Bệnh nhân có biểu hiện sốt, đau bụng quặn, mót rặn và đi cầu nhiều lần nhưng mỗi lần đi cầu thường có ít phân và chủ yếu chất nhầy mũi có lẫn máu. Amíp có thể tấn công vào gan làm gan sưng lên và có mủ gọi là áp-xe gan do amíp.

Bệnh lỵ do trực trùng: gặp ở trẻ em nhiều hơn người lớn; người bệnh có biểu hiện sốt cao, đau bụng, đại tiện nhiều lần, phân toàn nước màu đỏ như nước rửa thịt. Bệnh có thể làm trẻ chết nhanh chóng vì độc tố của vi trùng và do mất nước nhiều.

Bệnh thương hàn

Bệnh gặp ở cả trẻ em và người lớn. Bệnh có biểu hiện sốt kéo dài khoảng 2 tuần, ban đầu sốt nhẹ sau đó tăng dần thành sốt cao (400C) kèm đau bụng, nhức đầu, đầy hơi, chậm tiêu, tiêu chảy hoặc táo bón...

Cách xử trí

Bệnh nhân cần uống nhiều nước theo nhu cầu để phòng mất nước. Tốt nhất là sử dụng dung dịch Oresol (ORS). Nếu không sẵn có ORS thì có thể thay thế bằng các loại dung dịch như: nước muối đường, nước cháo muối, nước trái cây... Bệnh nhân vẫn phải ăn bình thường đề phòng suy dinh dưỡng. Có thể chia thành nhiều bữa nhỏ, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa như cháo, súp, trứng, cá hoặc thịt nấu kỹ. Đối với trẻ còn bú mẹ, vẫn tiếp tục cho bú sữa mẹ. Khẩn trương đưa người bệnh đến cơ sở y tế khi bệnh không giảm trong vòng 3 ngày hoặc khi có một trong các dấu hiệu sau: đại tiện nhiều lần, phân nước nhiều; ói mửa liên tục; khát nước nhiều; ăn hoặc uống kém; sốt cao; có máu trong phân hoặc phân đen.

Để phòng ngừa có hiệu quả các bệnh lây qua đường ăn uống nói chung và bệnh tiêu chảy cấp nói riêng, mọi người, mọi nhà cần thực hiện tốt:

Vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường: Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, cấm đi tiêu bừa bãi; tránh tập trung ăn uống đông người; hạn chế người ra vào vùng đang có dịch.

An toàn vệ sinh thực phẩm: Thực hiện ăn chín uống sôi; không ăn rau sống, uống nước lã; không ăn các thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn, đặc biệt là mắm tôm sống, hải sản tươi sống, gỏi cá, tiết canh, nem chua.

Bảo vệ nguồn nước và dùng nước sạch.

Khi có người bị tiêu chảy cấp, phải nhanh chóng báo ngay cho cơ sở y tế nơi gần nhất để được điều trị kịp thời.

(Nguồn: suckhoedoisong.vn)

Y tế trường học đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền thông giáo dục sức khỏe để học sinh và các bậc phụ huynh quan tâm thực hiện những biện pháp phòng ngừa nhằm chủ động tránh mắc phải một số bệnh thường gặp tại học đường do sự lây nhiễm qua đường tiêu hóa. Ngoài “thức ăn đường phố”, loại hình “quà vặt cổng trường” cũng là mối nguy cơ làm cho học sinh dễ mắc bệnh vì ăn uống không bảo đảm vệ sinh.

Các bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa thường gặp ở học sinh tại các trường học là tiêu chảy cấp tính, tả, lỵ trực khuẩn, thương hàn, viêm gan A, tay chân miệng và nhiễm giun. Vì vậy, cần biết một số đặc điểm của bệnh và cách phòng bệnh để chủ động việc phòng ngừa.

Bệnh tiêu chảy cấp tính

Thường gặp ở những trẻ em lứa tuổi mầm non và những năm đầu của cấp tiểu học. Bệnh có thể gây tử vong cho trẻ vì bị mất nước và các chất điện giải trầm trọng. Nguyên nhân gây nên bệnh tiêu chảy cấp tính do trẻ ăn uống những loại thức ăn, nước uống không thích hợp, có khả năng dinh dưỡng không tốt; có thể bị nhiễm khuẩn đường ruột do các loại Rotavirus, trực khuẩn E.coli, trực khuẩn lỵ, shigella, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn thương hàn. Ngoài ra, cũng có thể do bị viêm nhiễm ngoài ruột như viêm mũi họng, viêm tai giữa, viêm phổi sau khi bị mắc bệnh sởi hay ho gà.

Các bệnh lây qua đường tiêu hóa nguy hiểm như thế nào

Tiêm vắc-xin để phòng bệnh học đường lây qua đường tiêu hóa (ảnh minh họa).

Yếu tố thuận lợi tạo điều kiện cho bệnh tiêu chảy cấp tính phát triển tại các trường học do điều kiện vệ sinh môi trường kém, khí hậu nóng ẩm giúp vi sinh vật gây bệnh phát triển. Đối với học sinh bị suy dinh dưỡng sẽ dễ dàng mắc bệnh tiêu chảy cấp tính, nếu bị mắc thì bệnh kéo dài hơn và tỷ lệ tử vong cũng cao hơn. Ngoài ra, học sinh mầm non dưới 2 tuổi, bị rối loạn vi khuẩn đường tiêu hóa cũng dễ bị nhiễm bệnh tiêu chảy cấp tính.

Để phòng bệnh tiêu chảy cấp tính ở học sinh, về chế độ dinh dưỡng, cần cho trẻ bú sữa sớm ngay từ khi mới sinh, khi trẻ được 6 tháng thì cho ăn bổ sung với thức ăn bảo đảm đủ chất dinh dưỡng. Đối với vệ sinh ăn uống, các loại dụng cụ dùng để chế biến và ăn uống của trẻ phải được giữ sạch, thường xuyên tráng nước sôi trước khi sử dụng; không cho trẻ ăn thức ăn bị ôi thiu, nấu chưa chín; rau quả tươi phải rửa sạch, gọt, bóc vỏ; nước uống phải được vô trùng; dặn dò học sinh không được ăn quà vặt ở các gánh hàng rong; các bảo mẫu trước khi chế biến thức ăn và cho trẻ ăn phải rửa sạch bàn tay, đồng thời cũng phải rửa tay sạch cho trẻ, phải cắt ngắn các móng tay; bếp ăn ở trường học nội trú hoặc bán trú phải được thiết kế một chiều và bảo đảm vệ sinh. Về vệ sinh môi trường, phải sử dụng nguồn nước sạch để ăn uống và sinh hoạt trong trường học; các khu nhà vệ sinh phải bảo đảm yêu cầu; có hệ thống thu gom xử lý rác thải và nước thải. Đồng thời cũng cần chú ý đến các biện pháp diệt côn trùng truyền bệnh, ngăn chặn ruồi nhặng bay vào bám đậu ở những nơi sinh hoạt, học tập của trẻ. Một điều nên nhớ là phải cho trẻ thực hiện đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh theo quy trình và lịch quy định.

Bệnh tả

Đây là bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính do vi khuẩn Vibrio cholerae thường được gọi là phẩy khuẩn tả gây ra. Độc tố của vi khuẩn gây nôn mửa và đi tiêu chảy nặng kèm theo mất nước nhiều. Bệnh dễ có nguy cơ phát triển, lây lan nhanh gây ra dịch bệnh và cũng dễ dàng dẫn đến tử vong nếu không được xử trí điều trị kịp thời, tích cực. Hiện nay, bệnh tả vẫn còn có khả năng lưu hành ở một số vùng và thường xuyên xảy ra những vụ dịch nhỏ. Tuy vậy, phẩy khuẩn tả thường dễ chết dưới tác động của nhiệt từ ánh nắng mặt trời, ở nhiệt độ trên 55oC trong vòng 1 giờ và ở nhiệt độ 80oC sau 5 phút.

Phòng ngừa mắc bệnh tả bằng cách chú ý việc truyền thông giáo dục sức khỏe cho học sinh thực hiện việc ăn chín, uống chín và vệ sinh cá nhân; không nên ăn rau sống, kể cả rau đã được rửa sạch trong thời gian có dịch bệnh lưu hành. Giáo dục và vận động học sinh thường xuyên rửa tay bằng nước sạch với xà phòng, tham gia sử dụng vaccin phòng bệnh tả. Y tế trường học tham mưu và đề xuất việc xây dựng cũng như sử dụng nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn trong nhà trường. Khi phát hiện học sinh có tiêu chảy và nôn nhiều, y tế trường học nên chủ động bù nước và chất điện giải bằng dung dịch oresol uống, đồng thời đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để có điều kiện bù nước và chất điện giải bằng đường tĩnh mạch. Y tế trường học phải phối hợp tích cực với cơ sở y tế tại địa phương xử lý dịch bệnh kịp thời, hiệu quả, triệt để khi có dịch bệnh xảy ra.

Bệnh lỵ trực khuẩn

Lỵ trực khuẩn là bệnh do trực trùng Shigella thuộc họ Enterobacteriacae - loại vi khuẩn gram âm gây ra. Bệnh thường lưu hành ở những vùng nhiệt đới và ôn đới; có khả năng lưu hành tản phát quanh năm ở nhiều địa phương nhưng thường gia tăng, phát triển vào mùa hè thu; đồng thời có thể làm xảy ra dịch bệnh lỵ trực trùng trong một số nơi.

Phòng ngừa bệnh bằng cách phát hiện sớm học sinh bị mắc bệnh và học sinh lành mang vi khuẩn; đồng thời khi phát hiện thì người bệnh phải cách ly. Các chất thải của bệnh nhân được tẩy uế bằng vôi sống 20%, nước vôi 10%; dụng cụ, quần áo cũng cần sát khuẩn, ngâm dung dịch chloramin 2%; tẩy uế buồng bệnh, phòng y tế trường học bằng dung dịch cresyl 5%. Cần chú ý đến chế độ dinh dưỡng của bệnh nhân như vào ngày đầu chỉ cho ăn nhẹ, sau đó ăn gần bình thường nhưng không ăn hạn chế quá từ 3 - 4 ngày. Tránh ăn thức ăn nhiều chất xơ, cứng, nhiều chất mỡ và gia vị. Nếu nhân viên nhà trường bị mắc bệnh là cấp dưỡng, nấu ăn, tiếp phẩm thì không nên bố trí tiếp tục ở vị trí này sau khi xuất viện. Cần chú ý ngăn chặn sự tiếp xúc của côn trùng trung gian truyền tại các bếp ăn trong nhà trường như thực phẩm tươi sống nên cất vào tủ, nơi chế biến thức ăn phải có lưới ngăn ruồi nhặng; không cho học sinh ăn rau sống, quả tươi chưa được xử lý an toàn. Định kỳ có kế hoạch tổ chức biện pháp diệt ruồi nhặng và côn trùng trong nhà trường. Tuyên truyền, vận động học sinh việc giữ gìn vệ sinh cá nhân, thường xuyên rửa tay với xà phòng, ăn chín, uống sôi; kiểm tra vệ sinh môi trường ở các phòng học, lớp học, phòng nghỉ, nhà ăn, nhà bếp trong trường học.

Mời xem tiếp trên SK&ĐS số 88 ra ngày 4/6/2014

TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh