Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Không tình tiết giật gân, không tên tuổi ngôi sao phòng vé, Passing là những thước phim đầy chiêm nghiệm về giá trị của con người trong thời kỳ nạn phân biệt chủng tộc chi phối xã hội Mỹ những năm 1920.

Cái giá nào cho chiếc mặt nạ da trắng?

Được cải biên từ tiểu thuyết cùng tên của nữ văn sĩ Nella Larsen, Passing kể câu chuyện về hai người phụ nữ da đen Irene Redfield (Tessa Thompson) và Clare Kendry (Ruth Negga). Xuất thân từ gia đình gốc Phi nhưng hai cô gái trên đều sở hữu nước da sáng màu hơn, vừa đủ chuẩn để được “phân loại” không da đen. Từng học cùng trường và thân thiết như chị em nhưng Irene và Clare mất liên lạc khi trưởng thành.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Passing là câu chuyện đầy day dứt về bản dạng của hai người phụ nữ da đen

netflix

Họ hội ngộ vào một buổi trưa hè năm 1929 tại khách sạn sang trọng khu Manhattan (New York) vốn là “lãnh địa” chỉ dành cho người da trắng. Lúc này, Irene đang có cuộc sống hạnh phúc tại khu Halerm bên người chồng bác sĩ cùng hai con, đều da đen. Trong khi đó, Clare như một con người mới, với nước da trắng cùng mái tóc vàng óng ả. Cô đã kết hôn cùng một quý ông da trắng giàu có. Trò chuyện cùng nhau, Irene nhận ra rằng Clare đã che giấu bí mật về gốc gác bản thân với chồng mình, một kẻ trịch thượng và kỳ thị người da đen trong suốt nhiều năm chung sống.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Clare chọn cải danh, cải dạng thành người da trắng để được sống đời thượng lưu

netflix

Một người chấp nhận màu da và gốc gác của mình, người lại “cải dạng” để mưu cầu đổi đời trong thế giới da trắng thượng lưu. Họ nối lại tình bạn năm xưa theo một cách kỳ lạ, chen chân vào cuộc đời nhau và mọi chuyện thay đổi mãi mãi sau đó. Chọn để sống hai cuộc đời khác nhau nhưng một khi gặp lại, Irene và Clare đều bị lung lay bởi những giá trị mà họ theo đuổi.

Sống trong xã hội thượng lưu nhưng Clare luôn cô đơn và sợ hãi vì phải diễn kịch để che giấu bí mật xuất thân. Gặp lại Irene, Clare vui say khi được trở về với cộng đồng của mình, được ngửi mùi thức ăn bình dân, được tham gia những buổi dạ vũ thâu đêm suốt sáng, đắm mình vào điệu Swing và Jazz tại Halerm. Trong khi đó, Irene lại dần cảm thấy ghen tị với người bạn thời niên thiếu của mình.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Ruth Negga và Tessa Thompson trong vai Clare và Irene

netflix

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Chấp nhận gốc gác, cộng đồng của mình nhưng Irene vẫn ước vọng về cuộc sống của người da trắng

netflix

Bởi ở Clare luôn toát lên một vẻ sang trọng, quyến rũ như một nàng công chúa. Cô hoạt bát, phóng khoáng và thu hút tất cả mọi người xung quanh với sự hiện diện của mình. Đến mức chồng của Irene và các con của cô cũng thích giao du cùng Clare. Trong khi Irene chán ngán với cuộc sống nội trợ chỉ quẩn quanh trong ngôi nhà, Clare lại được tự do bay nhảy bởi chồng lúc nào cũng đi công tác, con gái thì du học Thụy Sĩ.

Hai người phụ nữ nhìn thấy ở nhau những gì con người họ còn thiết sót. Irene và Clare quý mến nhau nhưng vẫn tồn tại sự đối chọi âm ỉ. Dẫu vậy, cả hai đều hoang mang và bất ổn về bản dạng của chính mình. Là người chấp nhận ở lại với gốc gác nhưng trong Irene vẫn tồn tại những ước muốn thầm kín về một vị thế xã hội cao hơn. Cô giao du và duy trì quan hệ với những người da trắng thượng lưu, dày công tổ chức những buổi vũ hội để thu hút họ đến với Halerm. Cô từ chối khi chồng đề nghị chuyển đến một quốc gia nơi có nhiều người “như chúng ta”. Irene kiên quyết bảo vệ sự ngây ngô cho các con khi chồng mình muốn kể cho chúng nghe những câu chuyện người da đen đang bị đối xử tàn nhẫn ra sao tại New York. Một nỗi mặc cảm âm ỉ vẫn tồn tại sâu trong tâm thức người phụ nữ này đằng sau vỏ bọc hạnh phúc.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Phim khắc họa đầy ý nhị nỗi mặc cảm âm ỉ của cộng đồng người da đen những năm 1920

netflix

Đối với Clare, mọi thứ đã quá muộn. Cô đã chọn một cuộc đời mà cô mãi mãi phải đeo chiếc mặt nạ giả dạng, không được là chính mình ngay cả khi ở cạnh bên người mình "đầu gối tay ấp". Những giây phút dạo chơi, trò chuyện Irene và gia đình cô là thời gian duy nhất giúp Clare bỏ trốn thực tại phũ phàng. Đến mức khi lão chồng phỉ báng người da đen, Clare chỉ biết “ngậm bồ hòn làm ngọt” và cười xuôi theo ý lão. Cả Irene và Clare, họ đều là đại diện những người phụ nữ bất lực trong việc làm chủ cuộc đời mình. Bởi xã hội đã gán cho họ một cuộc đời được định sẵn, chỉ qua việc nhìn vào màu da.

\n

Góc khai thác mới lạ cho chủ đề phân biệt chủng tộc

Có thể nói, biên kịch/đạo diễn Rebecca Hall đã lựa chọn một góc khai thác rất mới lạ cho chủ đề phân biệt chủng tộc. Nhân vật của cô là những con người nằm ngay giữa ranh giới hai màu da. Trên thực tế, hôn nhân giữa người da trắng và da đen đã cho ra đời những đứa trẻ lai với vẻ ngoài đặc biệt. Những năm 1920 tại Mỹ, nhiều người đã tận dụng nước da sáng màu của mình để hoàn toàn “cải” sang thành người da trắng, nhằm tìm kiếm cơ hội đổi đời, được trọng vọng hơn tại nước Mỹ của người da trắng.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Phim tái hiện một nước Mỹ có sự phân hóa rõ rệt trong giai cấp dựa trên màu da

netflix

Passing của Rebecca Hall không phải là khúc ca bi tráng của những con người mạnh mẽ đấu tranh vì quyền lợi màu da, cũng không có những bi kịch rợn người của bạo lực và giết chóc. Bộ phim chỉ khắc họa cuộc sống của hai người phụ nữ đang hoang mang về chính bản dạng của mình trong một xã hội do người da trắng làm bá chủ. Những bi kịch không cuộn trào mà âm ỉ trong từng sinh hoạt đời sống nhỏ nhặt nhất. Tất cả được dẫn dắt một cách chậm rãi, hợp tình, hợp lý và bùng nổ về cuối.

Để phá vỡ mọi thành kiến về màu da, Rebecca Hall đã rất thông minh khi áp dụng tông màu trắng đen cho bộ phim đầu tay của mình. Tỉ lệ khung hình được áp dụng là 4:3, tái hiện hoàn hảo phong cách điện ảnh những năm 1920 và lột tả được sự bức bí của câu chuyện cần kể. Passing là một tác phẩm điện ảnh đẹp về nội dung lẫn hình ảnh. Bởi mọi khung hình đều được chăm chút đến từng chi tiết và chứa đựng muôn vàn ẩn ý. Cách sắp đặt ánh sáng của phim cũng là một điểm cộng lớn. Phim đặc biệt tận dụng tối đa nguồn âm thanh tự nhiên, chỉ xen lẫn những khúc đệm piano réo rắt trong những phân đoạn cao trào làm tôn lên tính chân thực của câu chuyện. Tổng thể thẩm mỹ của Passing như đưa người xem thực sự chu du về New York thập niên 1920. Bộ phim sẽ làm thỏa mãn những khán giả ưa chuộng phong cách vintage, retro và có hứng thú với bầu không khí văn hóa Mỹ đầy sôi nổi nhưng cũng lắm biến động thời kỳ này.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Phần hình ảnh của Passing mang vẻ đẹp hoài cổ

netflix

Hai nữ diễn viên Tessa Thompson và Ruth Negga có màn thể xuất sắc và đầy cảm xúc. Bộ đôi tung hứng ăn ý, mỗi người một vẻ nhưng hòa hợp trong từng phân cảnh. Tessa Thompson từ trước đến nay thường chỉ được biết đến qua vai diễn chiến binh Valkyrie trong bom tấn Thor. Ở Passing, cô đã hoàn toàn lột xác, ghi dấu với một vai diễn có nội tâm phức tạp nhưng cũng rất đời. Với Ruth Negga, cô vốn là cái tên được giới hàn lâm yêu mến, từng được đề cử ở rất nhiều hạng mục tại các giải thưởng cao quý như Oscar Hay BAFTA. Diễn viên gốc Ethiopia giữ vững phong độ diễn xuất với Passing.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Ruth Negga gây ấn tượng với tạo hình chuẩn quý cô da trắng

netflix

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

Rebecca Hall là một diễn viên người Anh, cô từng tham gia các phim như The Prestige, A rainy day in New York, Godzilla vs Kong...

vogue

Song, nữ diễn viên Rebeccal Hall đã có màn ra mắt rất ấn tượng trong vai trò đạo diễn. Passing đã chứng minh được khả năng đáng gờm của cô trong việc khai thác câu chuyện và vận dụng các kỹ thuật hình ảnh phức tạp. Được biết, chính việc khám phá ra gốc gác da đen từ nhà ngoại đã thúc đẩy Rebecca Hall thực hiện Passing. Theo lời Rebecca Hall, ông ngoại của cô sở hữu một phần dòng máu châu Phi nhưng cũng đã “cải trắng” để dễ hòa nhập. Cô không hề được biết về chuyện này cho đến tận lúc trưởng thành.

Passing từng được công chiếu tại Liên hoan phim Sundance 2021, được giới hàn lâm đón nhận nhưng vốn là phim độc lập nên không được quảng bá rầm rộ. Tuy nhiên, đây thực sự là một tác phẩm điện ảnh đáng xem của Netflix. Phim như một viên ngọc ẩn mình, một khoảng lặng với nhiều day dứt giữa “rừng” bom tấn hành động thuần tính giải trí trên các nền tảng phim trực tuyến. Một bộ phim đầy chiêm nghiệm, nhưng lại rất đời.

Tin liên quan

  • 'Red Notice': Màn tấu hài hời hợt của dàn sao hạng A
  • 'Midnight Mass' - Bữa tiệc kinh dị đầy chiêm nghiệm
  • Phim trực tuyến Hàn Quốc ‘bành trướng’ ra sao những năm qua?

  • Danh sách nhật ký
  • Bản thảo tác giả HHS
  • PMC4659767

Cultur thợ lặn dân tộc nhỏ.Bản thảo của tác giả;Có sẵn trong PMC 2016 ngày 14 tháng 1. Author manuscript; available in PMC 2016 Jan 14.

Được xuất bản dưới dạng chỉnh sửa cuối cùng như:

PMCID: PMC4659767PMC4659767

Nihmsid: NIHMS704612NIHMS704612

trừu tượng

Mục tiêu

Những ảnh hưởng của sự phân biệt đối xử dựa trên ngang hàng đặc biệt có hại cho thanh thiếu niên với vai trò tăng cao của phản hồi xã hội trong giai đoạn này.Nghiên cứu hiện tại nhằm tìm hiểu những biểu hiện độc đáo của sự phân biệt đối xử mà thanh thiếu niên trải nghiệm giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè, cũng như ảnh hưởng hàng ngày của những trải nghiệm đó.

Phương pháp

Nghiên cứu 1 bao gồm các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc (10 cuộc phỏng vấn, 2 nhóm tập trung; MAGE = 17.3) với một mẫu dân tộc/chủng tộc đa dạng về tuổi thiếu niên.Nghiên cứu 2 (n = 79; MAGE = 15,72) đã sử dụng một nghiên cứu nhật ký hàng ngày 21 ngày với một mẫu thanh thiếu niên dân tộc/chủng tộc khác nhau.

Kết quả

Nghiên cứu 1 cho thấy, trong số các đồng nghiệp và bạn bè thân thiết, thanh thiếu niên đã trải qua trêu chọc dân tộc/chủng tộc, một hình thức phân biệt đối xử độc đáo được đặc trưng bởi sự hài hước.Ngoài ra, thanh thiếu niên liên tục bác bỏ các thông điệp tiêu cực là vô hại dựa trên bản chất được cho là hài hước của các tương tác như vậy.Nghiên cứu 2 nhận thấy rằng khi thanh thiếu niên bị nhắm mục tiêu đến trêu chọc dân tộc/chủng tộc, những người đã lo lắng đã trải qua sự lo lắng hàng ngày tăng lên và điều đó tăng lên trong sự lo lắng xã hội vẫn tồn tại trong nhiều ngày.

Kết luận

Nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng trong số các đồng nghiệp, trêu chọc dân tộc/chủng tộc là một cách phổ biến mà thanh thiếu niên tương tác xung quanh dân tộc/chủng tộc.Hơn nữa, nghiên cứu này chỉ ra sự phức tạp của những kinh nghiệm này;Mặc dù chúng phần lớn được coi là quy phạm và vô hại, nhưng chúng cũng có tác dụng tâm lý tiêu cực đối với một số thanh thiếu niên.Ý nghĩa cho sự hiểu biết khái niệm của chúng tôi về sự phân biệt đối xử và trêu chọc trong thời niên thiếu được thảo luận.

Từ khóa: tuổi thiếu niên, phân biệt đối xử, trêu chọc dân tộc/chủng tộc, tình bạnadolescence, discrimination, ethnic/racial teasing, friendship

Mặc dù nó có thể xảy ra theo những cách sắc thái và tinh tế, sự phân biệt đối xử thấm vào cuộc sống của các dân tộc thiểu số/chủng tộc ở Hoa Kỳ (Garcia Coll et al., 1996; Pascoe & Smart Richman, 2009; Sue, 2009; Sue, Capodilupo, Nadal, &Torino, 2008).Đối với thanh thiếu niên, những trải nghiệm bất lợi như vậy có thể là một tải trọng đặc biệt nặng nề, vì việc điều hướng bối cảnh xã hội của họ có thể là một thách thức (Spencer, 1995).Cụ thể, ảnh hưởng xã hội của các đồng nghiệp ngày càng tăng lên trong thời niên thiếu (Erikson, 1968).Tuy nhiên, có rất ít kiến thức về những cách mà thanh thiếu niên trải qua sự phân biệt chủng tộc/chủng tộc giữa các đồng nghiệp thân thiết (ví dụ, các đồng nghiệp có mối quan hệ hiện tại) và bạn bè.Do đó, trong hai mẫu độc lập của thanh thiếu niên đa dạng, nghiên cứu hiện tại đã kiểm tra xem những kinh nghiệm về phân biệt chủng tộc/chủng tộc có xảy ra giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè hay không.Mục tiêu chính của nghiên cứu là xem xét làm thế nào những trải nghiệm như vậy có thể khác với các khái niệm truyền thống về phân biệt đối xử và kết quả tâm lý liên quan đến những kinh nghiệm này.

Kinh nghiệm chủ quan về phân biệt đối xử: Khung lý thuyết

Phân biệt chủng tộc/chủng tộc là một yếu tố gây căng thẳng lan tỏa làm tăng nguy cơ đối với kết quả phát triển không lành mạnh (Spencer, 1995).Mặc dù sự phân biệt đối xử được thực hiện bởi các cá nhân, tổ chức và chính sách, nghiên cứu hiện tại tập trung vào các hình thức phân biệt đối xử giữa các cá nhân.Biến thể hiện tượng học của lý thuyết hệ sinh thái (Pvest; Spencer, 1995) nói lên tầm quan trọng của việc xử lý các cá nhân về kinh nghiệm của họ, đặc biệt là kinh nghiệm phân biệt đối xử (Spencer, Dupree, & Hartmann, 1997).Spencer và các đồng nghiệp lập luận rằng các quá trình tự nhận thức chủ quan của người Hồi giáo làm tăng sự phức tạp vì đặc điểm và nội dung của môi trường rủi ro cao liên quan đến dân tộc và khả năng hiển thị đối với dân tộc thiểu số Mỹ (1997; trang 818).Đó là, đối với các dân tộc thiểu số/chủng tộc, việc giải thích và đối phó sau đó với những trải nghiệm bất lợi như phân biệt đối xử là đặc biệt phức tạp.Phù hợp với Pvest, chúng tôi đã kiểm tra các trải nghiệm chủ quan về phân biệt đối xử trong hai nghiên cứu bằng cách sử dụng thiết kế hỗn hợp mới nổi (Creswell & Plano Clark, 2007).Nghiên cứu 1 đã xem xét các kinh nghiệm phân biệt đối xử một cách định tính, vì việc thu thập những kinh nghiệm này trong thanh thiếu niên Lời nói của riêng mình cho phép chúng tôi nắm bắt được những trải nghiệm chủ quan của họ.Sử dụng một mẫu độc lập, nghiên cứu 2 đã khám phá một cách định lượng kinh nghiệm phân biệt đối xử mà những người tham gia báo cáo trong Nghiên cứu 1, có tính đến sự khác biệt cá nhân trong sự lo lắng có thể ảnh hưởng đến kinh nghiệm chủ quan của họ.Cùng nhau, hai nghiên cứu cung cấp các phương pháp bổ sung để hiểu những trải nghiệm chủ quan của sự phân biệt chủng tộc/chủng tộc giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè, và ảnh hưởng của những trải nghiệm đó hàng ngày.

Ethnic/Racial Discrimination: Considering the Source

Empirical evidence has documented the negative effects of discrimination across a broad range of outcomes, including increased anxiety (e.g., Gaylord-Harden & Cunningham, 2009) and depressive symptoms (e.g., English, Lambert, & Ialongo, 2014; Seaton & Douglass, 2014), decreased self-esteem (e.g., Armenta & Hunt, 2009), and lower academic outcomes (e.g., Chavous, Rivas-Drake, Smalls, Griffin, & Cogburn, 2008). Amid evidence of these negative effects, attention in the literature has considered the source of discrimination for adolescents, with particular attention paid to discrimination from peers versus adults (Fisher, Wallace, & Fenton, 2000). The effects of peer discrimination may be particularly pernicious during adolescence given developmental tendencies to place increased emphasis on peer feedback and acceptance (Erikson, 1968; Savin-Williams & Berndt, 1990). Indeed, research finds that adolescents internalize negative messages about their ethnicity/race from peers differently than from adults. For example, Rivas-Drake, Hughes, and Way (2009) found that among a diverse group of adolescents, discrimination from peers, but not from adults, was associated with personal views about their ethnic group (i.e., private regard). Similarly, Greene and colleagues (2006) found that peer discrimination had greater mental health implications than did adult discrimination among Black, Latino, and Asian American adolescents. Other research has suggested that the influence of peer- versus adult-based discrimination may be domain-specific; among Black, Latino, and Asian American adolescents, peer discrimination was associated with psychological maladjustment, whereas discrimination from school personnel was associated with poor academic performance (Benner & Graham, 2013). In sum, it appears that peers can constitute a unique and meaningful source of discrimination for adolescents.

Although close relationships such as friendships do not seem like the most obvious context for discrimination, perspectives from social cognition suggest that they may, in fact, be prime settings for adolescents to explore intergroup dynamics. Adolescents often rely on stereotypes and generalizations of others to lessen their cognitive load (Selman, 1980) as they are concurrently struggling to figure out their own identity and how it is related to those around them (Quintana, 1998). Adolescents’ attempts to navigate their own emerging identities and those of others take place largely within relationships (Phinney & Tarver, 1988; Swann, 1987), and thus may result in experiences of discrimination between close peers and friends, particularly in diverse settings where ethnic/racial identities are highly salient (Umaña-Taylor & Fine, 2004).

Research on power dynamics (e.g., Rosenbloom & Way, 2004) and intimacy (e.g., Shelton, Trail, West, & Bergsieker, 2010) suggest that if discrimination occurs within existing relationships, the nature of such experiences may be unique. Discrimination paradigms are typically framed within a power imbalance, in which dominant group members direct differential treatment toward subordinate group members (Williams, Neighbors, & Jackson, 2003). Indeed, research on peer discrimination supports the notion that individuals from ethnic/racial groups with greater social capital are more likely to direct discrimination toward members of less valued groups (Fisher et al., 2000; Greene et al., 2006; Rosenbloom & Way, 2004). However, power dynamics become more ambiguous in the presence of existing relationships and friendships (De Goede, Branje, & Meeus, 2009; Hodges, Boivin, Vitaro, & Bukowski, 1999) and such relationships are likely transactional in nature (Newcomb & Bagwell, 1995). Additionally, close peers and friendships lend a degree of intimacy to interpersonal interactions that may not be present among general peers (Reis & Shaver, 1988), and existing frameworks of discrimination are largely incompatible with the notion of intimacy. Based on these fundamental differences, it is likely that discrimination in existing relationships would be qualitatively different from discrimination between general peers.

One way that discriminatory experiences may manifest among close peers and friends is through teasing. Teasing is a typical social interaction for adolescents (Sanford & Eder, 1984) in which an “[i]ntentional provocation [is] accompanied by playful markers that together comment on something of relevance to the target” (Keltner, Capps, Kring, Young, & Heerey, 2001, p. 229). A basic premise of teasing behaviors is that they only occur in relationships that have achieved a minimum level of intimacy (Baxter, 1992), and research indicates that individuals hold lay theories in which teasing is understood as an act of solidarity between two people (Tragesser & Lippman, 2005). Indeed, teasing is a common and socially acceptable form of interaction within social relationships, and research on teasing suggests that individuals are more likely to direct negative messages through teasing comments to their friends than their nonfriend peers (Keltner, Young, Heerey, Oemig, & Monarch, 1998). Despite the fact that teasing typically takes place between close peers and friends, research has documented its negative psychological impacts (Faith, Storch, Roberti, & Ledley, 2008; McCabe, Miller, Laugesen, Antony, & Young, 2010; Storch et al., 2003). For example, research on weight-based teasing demonstrates that for obese children, the frequency of weight-based teasing from peers negatively impacts mental health, including increased loneliness and incidence of bulimia (Hayden-Wade et al., 2005). Taken together, this research suggests that teasing may be one way in which adolescents interact with their close peers and friends about ethnicity/race, and that such experiences may have harmful individual effects that are consistent with general discriminatory experiences. However, research has not examined teasing experiences around ethnicity/race specifically.

Bản chất năng động của vai trò

Mối quan hệ ngang hàng, phân biệt đối xử giữa các cá nhân và trêu chọc thường được xem xét trong bối cảnh của dyads.Ví dụ, kinh nghiệm phân biệt đối xử và trêu chọc phụ thuộc vào sự hiện diện của ít nhất hai người: nạn nhân (tức là, người đang bị nhắm mục tiêu) và thủ phạm (tức là, người đang nhắm mục tiêu ai đó).Nghiên cứu hiện tại, như đã được xem xét ở trên, đã ghi lại rộng rãi những tác động bất lợi của phân biệt đối xử và trêu chọc nạn nhân (ví dụ, Pascoe & Smart Richman, 2009; Keltner et al., 2001).Các cơ quan nghiên cứu riêng biệt nhưng bổ sung về mặt khái niệm đã kiểm tra sự phân biệt đối xử và trêu chọc từ quan điểm của thủ phạm (xem Kowalski, 2001; Quillian, 2006;).Nghiên cứu về nạn nhân ngang hàng, từng phản ánh một sự khác biệt tương tự trong sự hiểu biết về nạn nhân và thủ phạm, kể từ đó đã cho thấy lợi ích của việc xem xét cách một cá nhân có thể đóng cả hai vai trò tại các thời điểm khác nhau (Schwartz, Dodge, Pettit, & Bates, 1997;Unverver, 2005).Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy 21% các trường hợp bắt nạt bao gồm các cá nhân báo cáo là cả mục tiêu và thủ phạm thường xuyên (Nansel et al., 2001).Nhận thức được vai trò năng động mà thanh thiếu niên đóng trong các mối quan hệ chặt chẽ và các tương tác xảy ra trong các mối quan hệ này, nghiên cứu hiện tại đã hỏi về cả kinh nghiệm của nạn nhân và thủ phạm về phân biệt chủng tộc/chủng tộc.

Ngoài vai trò của thủ phạm hoặc nạn nhân, thanh thiếu niên có thể tham gia bên ngoài một con đê, dưới hình thức kinh nghiệm gián tiếp, bằng cách làm chứng cho sự phân biệt đối xử (Harrell, 2000).Phân biệt chủng tộc đã được coi là một nguồn căng thẳng tiềm tàng cho trẻ em (ví dụ: xem cha mẹ là nạn nhân chủng tộc; Quintana & McKown, 2008), và những trải nghiệm trêu chọc gián tiếp đã được khái niệm hóa như một cơ chế mà thanh thiếu niên hiểu và nội tâm hóa các chuẩn mực ngang hàng(Jones & Crawford, 2006).Thật vậy, lý thuyết học tập xã hội cho thấy thanh thiếu niên sẽ bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc/chủng tộc mà họ chứng kiến trong các mạng lưới ngang hàng của họ ngay cả khi họ không phải là thủ phạm hoặc nạn nhân (Bandura, 1986).Trong nghiên cứu 1, chúng tôi xem xét nhiều cách năng động mà một thanh thiếu niên có thể tham gia vào kinh nghiệm phân biệt đối xử trong các mạng ngang hàng của họ.Trong nghiên cứu 2, chúng tôi xem xét làm thế nào các vai trò khác nhau này thay đổi ý nghĩa của những trải nghiệm đó.Cùng nhau, cách tiếp cận này cho phép hiểu biết toàn diện hơn về kinh nghiệm của thanh thiếu niên.

Nghiên cứu 1

Mục tiêu

Nghiên cứu 1 sử dụng một cách tiếp cận định tính để kiểm tra kinh nghiệm phân biệt đối xử giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè cho thanh thiếu niên sống trong một khu vực đô thị đa dạng và theo học các trường trung học đa dạng, nơi cơ hội cho tình bạn giữa các nhóm sẽ rất cao.Mục đích nghiên cứu đầu tiên là kiểm tra xem những kinh nghiệm phân biệt đối xử có diễn ra giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè hay không, và nếu vậy những trải nghiệm này trông như thế nào.Chúng tôi đã đưa ra giả thuyết rằng thanh thiếu niên sẽ báo cáo sự phân biệt đối xử giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè, nhưng bản chất của những trải nghiệm như vậy sẽ khác với cách phân biệt đối xử truyền thống được thể hiện trong nghiên cứu hiện tại.Hơn nữa, chúng tôi đã đưa ra giả thuyết rằng trêu chọc có thể là một con đường tiềm năng mà các đồng nghiệp và bạn bè gần gũi tương tác xung quanh dân tộc/chủng tộc.Mục đích nghiên cứu thứ hai là khám phá nhiều vai trò trong phân biệt đối xử, hỏi thanh thiếu niên về nạn nhân, thủ phạm và kinh nghiệm phân biệt đối xử để nắm bắt bản chất năng động của các tương tác đó (tức là, nhiều vai trò mà một cá nhân có thể đóng) trong các mối quan hệ này.Chúng tôi đã đưa ra giả thuyết rằng thanh thiếu niên sẽ có thể xác định những trải nghiệm mà họ từng là nạn nhân và thủ phạm phân biệt đối xử, cũng như các trường hợp mà họ trải qua sự phân biệt đối xử một cách gián tiếp như một bên thứ ba.

Phương pháp

Những người tham gia

Những người tham gia là 23 thanh thiếu niên ở hai trường trung học công lập ở thành phố New York (MAGE = 17,3, SDAGE = .46, 62% nữ).Những người tham gia được yêu cầu tự nhận dạng dân tộc/chủng tộc của họ bằng cách trả lời câu hỏi về chủng tộc hay sắc tộc nào bạn thấy mình là?Phản hồi rất đa dạng và nhiều nền tảng dân tộc/chủng tộc đại diện (xem Bảng 1).Table 1).

Bảng 1

Tự nhận dạng dân tộc/chủng tộc của những người tham gia nghiên cứu 1 theo trường học và loại phỏng vấn

Phỏng vấn

Trường aTrường b
Anh đenNgười Mỹ gốc Phi
Người Mỹ bản địa và ĐenNgười Mỹ gốc Phi
Người Mỹ bản địa và ĐenNgười Mỹ gốc Phi và Đen
Dominican, Haiti và người Mỹ bản địaPuerto Rico và Ailen
Tây Ban Nha và trắngĐen và Tây Ban Nha (Nigeria và Panama)
Nhóm tập trung

LatinoTây Ban Nha (Dominican)
Tây Ban Nha (Peru)Tây Ban Nha
Tây Ban Nha và Dominicanngười Trung Quốc
Tây Ban Nha và EcuadorTrắng
Puerto Rico và Sicilianngười Hy Lạp
Colombia và Ecuadortiếng Nga
người Pháp

Thủ tục

Những người tham gia đã được tuyển dụng cho nghiên cứu hiện tại từ hai trong số năm trường tham gia vào nghiên cứu kinh nghiệm của giới trẻ (có), một nghiên cứu theo chiều dọc về sự phát triển của thanh thiếu niên.Các trường bao gồm trong nghiên cứu có lớn hơn có quy mô tương đương và tất cả đều được xếp hạng là các trường hoạt động hàng đầu của Bộ Giáo dục Thành phố New York (DOE).Các trường được chọn để đưa vào dựa trên thành phần dân tộc/chủng tộc của các sinh viên;Trong nghiên cứu này, những người tham gia được tuyển dụng từ một trường học chủ yếu là Tây Ban Nha (trường A) và một trường không đồng nhất (trường B).Do sự đa dạng vốn có của NYC, chủ yếu là người được định nghĩa là 40% trở lên của cơ thể sinh viên;Trong trường không đồng nhất, không có nhóm nào chiếm hơn 40% cơ thể học sinh.

Các cố vấn hướng dẫn của trường đã tạo điều kiện tuyển dụng những người tham gia lớp 11 và 12 đủ thoải mái để thảo luận về các chủ đề nhạy cảm trong giao thức phỏng vấn và để tránh tham gia chéo trong nghiên cứu lớn hơn (bao gồm những người tham gia lớp 9 và 10).Có năm cuộc phỏng vấn riêng và một nhóm tập trung được thực hiện ở mỗi trường.Đối với các cuộc phỏng vấn, tuyển dụng không được nhắm mục tiêu vào các nhóm dân tộc/chủng tộc cụ thể.Đối với các nhóm tập trung, tuyển dụng nhắm vào một nhóm có nhận dạng dân tộc/chủng tộc song song với thành phần dân tộc/chủng tộc lớn hơn của trường.Phù hợp với nghiên cứu trước đây (Moore, 2006; Smith & Belgrave, 1995), sự kết hợp giữa các cuộc phỏng vấn và nhóm tập trung đã được sử dụng để cung cấp tam giác thông tin (Willig, 2013), và nắm bắt cả kinh nghiệm cá nhân và thông tin về các quy tắc nhóm (Seal, Bogart, & Ehrhardt, 1998).

Một kỹ thuật phỏng vấn bán cấu trúc đã được sử dụng trong các cuộc phỏng vấn và các nhóm tập trung để thăm dò những người tham gia kinh nghiệm phân biệt đối xử giữa bạn bè.Sự phân biệt đối xử đã được thảo luận theo các điều khoản của điều trị không công bằng và phán đoán của người Hồi giáo để làm giảm các đặc điểm nhu cầu của các câu hỏi.Kinh nghiệm giữa bạn bè đã bị bắt theo cả hai cách trực tiếp và gián tiếp;Họ đã bị bắt trực tiếp bằng cách hỏi những người tham gia rằng họ đã từng bị bạn bè đối xử bất công hay tồi tệ vì dân tộc hoặc chủng tộc của họ (tức là, vai trò của bạn bè đã được đưa vào câu hỏi).Họ cũng bị bắt một cách gián tiếp khi những người tham gia trả lời bất kỳ câu hỏi nào bằng cách giải thích hoặc chia sẻ kinh nghiệm họ có với bạn bè của họ (tức là, vai trò của bạn bè đã được đưa vào phản hồi).Giao thức cũng bao gồm nhiều câu hỏi khác liên quan đến những người tham gia Kinh nghiệm về dân tộc/chủng tộc ở trường, bao gồm cả sự mặn mà, động lực học ngang hàng (tức là, các mối quan hệ của giáo viên.Tất cả các cuộc phỏng vấn diễn ra trong một phòng riêng tại trường của người tham gia, và kéo dài khoảng một giờ;Băng âm của các phiên đã được phiên âm và chuyển sang NVIVO8.Tất cả các tên bao gồm trong bảng điểm đã được thay đổi.

Tác giả đầu tiên (một phụ nữ da trắng) đã thực hiện tất cả các cuộc phỏng vấn và các nhóm tập trung, và thừa nhận rõ ràng chủng tộc của cô ấy trong 58% (7 trên 12) các cuộc phỏng vấn khi những người tham gia có thể đấu tranh chia sẻ kinh nghiệm dân tộc/chủng tộc của riêng họ, đặc biệt là kinh nghiệm của họ vớinhững người da trắng khác.Để thúc đẩy độ tin cậy của dữ liệu, các lập trình viên phụ trợ (tác giả thứ hai và thứ ba, một phụ nữ châu Á và nam da trắng) đã được đào tạo với hướng dẫn lập trình viên (được phát triển bởi tác giả đầu tiên), và bất kỳ câu hỏi hoặc vấn đề nào được giải quyết trong nhóm.Như với tất cả các nghiên cứu định tính, mặc dù thỏa thuận đào tạo và lập trình viên, các đặc điểm xã hội học và quan điểm cá nhân của các nhà nghiên cứu chắc chắn đã ảnh hưởng đến cách thu thập, xem và giải thích dữ liệu (xem Finlay, 2002).Ví dụ, mỗi lập trình viên tiếp cận phân tích tin rằng thanh thiếu niên trải qua sự phân biệt đối xử.

Kết quả

Kế hoạch phân tích

Kết quả được báo cáo trong bài viết này dựa trên một tập hợp con của sơ đồ mã hóa được phát triển bằng cách sử dụng các yếu tố của phương pháp lý thuyết có căn cứ (Charmaz, 2006; Glaser, 1992; Strauss & Corbin, 1998).Mã hóa mở, trong đó mỗi dòng dữ liệu được kiểm tra, lần đầu tiên được sử dụng để xác định các chủ đề chính trong dữ liệu.Một vòng thứ cấp của mã hóa trục, trong đó các chủ đề khái niệm trong cấu trúc mã hóa mở đã được xác định và tổ chức theo thứ bậc, sau đó được tiến hành để liên kết các chủ đề ban đầu.Cuối cùng, một vòng mã hóa chọn lọc, trong đó mỗi cấu trúc mã hóa được chỉ định chặt chẽ nhất có thể, đã được tiến hành để xác định các phân nhóm.Sau khi sơ đồ mã hóa được phát triển, tất cả các bảng điểm sau đó được mã hóa độc lập trong Dedoose (phiên bản Dedoose 4.5, 2013) của các tác giả thứ hai và thứ ba (k = .74 cho tất cả các phân tích được sử dụng trong nghiên cứu hiện tại).

Trong mỗi nhóm phỏng vấn và tập trung, tất cả các trường hợp của mỗi mã đã được xem xét;Sau đó, cả hai phân tích cấp độ sự kiện và con người đã được thực hiện.Bằng cách kiểm tra tất cả các trường hợp của một mã, bất kể nguồn gốc, các chủ đề cấp sự kiện có thể được xem xét.Bằng cách kiểm tra các trường hợp của một mã theo nguồn, các chủ đề cấp người có thể được xem xét.Cả hai cấp độ phân tích được trình bày trong suốt kết quả.Khi kiểm tra các chủ đề cấp người, các nhóm tập trung được coi là một điểm dữ liệu, trừ khi các chủ đề mâu thuẫn được trình bày.

AIM I: Kinh nghiệm phân biệt đối xử giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè

Để giải quyết mục đích đầu tiên, chúng tôi đã kiểm tra xem và làm thế nào những người tham gia trải qua sự phân biệt đối xử giữa bạn bè.Để nắm bắt những kinh nghiệm cụ thể này, tất cả các báo cáo về phân biệt đối xử đã được sàng lọc lần đầu tiên.Những kết quả này chỉ ra rằng tất cả những người tham gia (100%; n = 12) có thể xác định thời gian khi họ được đối xử khác nhau dựa trên dân tộc/chủng tộc của họ từ bất kỳ nguồn nào.Tổng cộng, 137 kinh nghiệm đã được kể lại trên khắp những người tham gia và những điều này được mã hóa rộng nhất là điều trị dựa trên dân tộc/chủng tộc.Trên khắp những người tham gia, những câu chuyện này đã được nêu ra để trả lời mọi câu hỏi trong giao thức;Đó là, mặc dù mọi người tham gia đã không kể một câu chuyện về điều trị dân tộc/dựa trên chủng tộc để trả lời mọi câu hỏi, ngay cả những câu hỏi được cho là lành tính (ví dụ: Hãy nói với tôi về nhóm bạn thân nhất của bạn)Điều trị dựa trên ít nhất một người tham gia, làm nền tảng cho sự liên quan và tần suất của những trải nghiệm đó trong cuộc sống của thanh thiếu niên.Tiếp theo, các báo cáo về điều trị dân tộc/dựa trên chủng tộc đã được sàng lọc dựa trên các bối cảnh mà chúng xảy ra (tức là bạn bè hoặc đồng nghiệp thân thiết so với người không phải là bạn bè hoặc người lạ);18% (n = 25) của tất cả các tài khoản điều trị dựa trên chủng tộc/chủng tộc bao gồm sự phân biệt đối xử với những người không phải là người, chẳng hạn như bị nhìn chằm chằm vào tàu điện ngầm, hoặc bị cảnh sát ngăn chặn một cách không cần thiết.Cho rằng những kinh nghiệm này không phải là trọng tâm của nghiên cứu hiện tại, chúng sẽ không được thảo luận thêm.

Phần lớn (82%; n = 112) kinh nghiệm mà những người tham gia kể lại xảy ra giữa các đồng nghiệp gần gũi (ví dụ: bạn cùng lớp, người quen) hoặc bạn bè.Phù hợp với kinh nghiệm chung về điều trị dân tộc/dựa trên chủng tộc, tất cả những người tham gia có thể nhớ lại ít nhất một sự cố xảy ra giữa những người bạn nói riêng.Trong suốt các báo cáo này, chúng tôi đã xác định hai chủ đề rõ ràng có thể được sử dụng một cách đáng tin cậy để phân loại các tài khoản này: phân biệt đối xử và trêu chọc dân tộc/chủng tộc.Hai chủ đề này giống hệt nhau trên hai kích thước chính;Cụ thể, (a) xảy ra giữa các đồng nghiệp thân thiết hoặc bạn bè, và (b) một tham chiếu đến sắc tộc hoặc chủng tộc mang một số nội dung hoặc ý nghĩa rập khuôn.Tuy nhiên, có một sự khác biệt rõ ràng giữa phân biệt đối xử và trêu chọc dân tộc/chủng tộc dựa trên kinh nghiệm chủ quan của người tham gia và cách họ kể lại những trải nghiệm này.Trêu chọc dân tộc/chủng tộc, như được nói bởi những người tham gia, luôn được đánh dấu bằng cách sử dụng ngôn ngữ để bao hàm sự hài hước (ví dụ:).Tuy nhiên, kinh nghiệm phân biệt đối xử phù hợp với mô hình phân biệt đối xử thường được chấp nhận ở chỗ họ thiếu hài hước và được người tham gia kể lại một cách nghiêm túc.Phân biệt đối xử chiếm 24% (n = 27) kinh nghiệm điều trị dựa trên chủng tộc/chủng tộc, trong khi trêu chọc dân tộc/chủng tộc chiếm 76% (n = 85);Cho rằng việc phân phối kinh nghiệm đã bị sai lệch nhiều đối với trêu chọc dân tộc/chủng tộc và thiếu thông tin có sẵn về những kinh nghiệm như vậy trong tài liệu, chúng tôi đã phân tích họ thêm để kiểm tra kinh nghiệm và nội dung nhận thức.

Kinh nghiệm nhận thức

Đặc điểm xác định của trêu chọc dân tộc/chủng tộc là nó xảy ra với việc sử dụng các dấu hiệu hài hước, như được tiếp tục bởi những người tham gia.Điều đáng chú ý là trong mỗi nhóm phỏng vấn và tập trung, những người tham gia đã nêu ra chủ đề trêu chọc dân tộc/chủng tộc mà không được hỏi trực tiếp về nó;Thật vậy, các câu hỏi về trêu chọc dân tộc/chủng tộc không phải là một phần của giao thức phỏng vấn.Cho rằng những người tham gia tự nhiên đưa ra các trường hợp trêu chọc dân tộc/chủng tộc, các bối cảnh mà họ được cung cấp trong các cuộc phỏng vấn là thông tin về nhận thức về kinh nghiệm.Đầu tiên, 42% người tham gia (n = 5) đưa ra các ví dụ về trêu chọc dân tộc/chủng tộc khi được hỏi liệu bạn bè của họ đã từng đối xử tiêu cực với chủng tộc hay sắc tộc của họ;Tuy nhiên, trong những trường hợp như vậy, những người tham gia nhất trí bác bỏ quan niệm rằng sự phân biệt đối xử xảy ra giữa bạn bè của họ, và thay vào đó đưa ra các ví dụ trong đó họ tinh nghịch đã trao đổi ý kiến về dân tộc/chủng tộc của họ.Ở đây, một người tham gia 17 tuổi, người được xác định là người Mỹ bản địa và người da đen nói về một trải nghiệm mà cô đã chứng kiến:

Người phỏng vấn: Bạn có thể nghĩ về một thời gian khi một học sinh ở đây được đối xử khác nhau hoặc không công bằng vì chủng tộc hay sắc tộc? Can you think of a time when a student here was treated differently or unfairly because of race or ethnicity?

Người tham gia: ừm tôi sẽ nói không công bằng, giống như họ đã làm anh ta vui. Um I wouldn’t say unfair … like they made fun of him.

Người phỏng vấn: Để làm gì? For what?

Người tham gia: Vì là người Mexico.Bạn biết làm thế nào họ mà tôi không biết, bạn biết họ như thế nào.Tôi không nghĩ rằng họ đã coi trọng nó hoặc bất cứ điều gì.Họ chỉ làm những trò đùa như thế, gây ra toàn bộ điều cúm lợn, yeah. For being Mexican. You know how they … I don’t know, you know how they. … I don’t think they took it seriously or anything. They were just making jokes like, ‘cause the whole swine flu thing, yeah.

Mặc dù những người tham gia thường đưa ra trêu chọc dân tộc/chủng tộc để trả lời các câu hỏi về sự phân biệt đối xử với bạn bè của họ/Trêu chọc chủng tộc.

Ngoài ra, 35% người tham gia (n = 4) đã mô tả sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc khi được hỏi về sự nổi bật của dân tộc/chủng tộc của họ trong suốt ngày học của họ, đưa ra những ví dụ về cách các tương tác như vậy làm tăng nhận thức về dân tộc hoặc chủng tộc của chính họ.Ví dụ, để trả lời câu hỏi về một số thời điểm nhất định về nhận thức về chủng tộc, một người tham gia, một phụ nữ 16 tuổi được xác định là người Anh da đen, tiếp tục:

Khi trời tối bên ngoài?….Vâng, họ giống như ‘Tôi có thể nhìn thấy bạn Shauna, bạn đang ở đâu?Thêm vào đó, tôi là một con nhỏ.

Trong khi đưa ra ví dụ này về cách bạn bè của cô ấy hành động khiến cô ấy nhận thức được về dân tộc/chủng tộc của mình, người tham gia không chỉ tự gắn nhãn trải nghiệm là buồn cười, mà cô ấy còn đưa ra những lời biện minh cho hành vi của bạn bè.Bất kể việc trêu chọc dân tộc/chủng tộc đã được nâng lên như thế nào, 100% người tham gia (n = 12) ban đầu báo cáo rằng trêu chọc dân tộc/chủng tộc là vô hại;Đó là, không có người tham gia thừa nhận các khía cạnh tiêu cực hoặc gây tổn thương của những trải nghiệm như vậy theo ý mình.Theo dõi những lời biện minh ban đầu của những trải nghiệm này, những người tham gia sau đó được hỏi trực tiếp về bản chất có khả năng gây hại của các hành vi đó (tức là, tất cả những người tham gia được hỏi liệu họ có thể nghĩ bất cứ lúc nào trải nghiệm đó có hại).Ngay cả sau khi thăm dò trực tiếp, chỉ có 17% (n = 2) có thể nhớ lại một ví dụ trong đó trêu chọc dân tộc/chủng tộc không gặp phải sự hài hước, hoặc khiến ai đó trở nên buồn bã.Đáp lại câu hỏi này, người tham gia AN18 tuổi tự nhận mình là Dominican, Haiti và người Mỹ bản địa mô tả những điều sau đây:

Người tham gia: Vì người bạn da trắng của tôi, Julia, cô ấy làm tôi vui vì tôi là người da đen. ‘Cause my um White friend, Julia, she makes fun of me ‘cause I’m Black.

Người phỏng vấn: Và cô ấy nói gì? And what does she say?

Người tham gia: Cô ấy luôn nói như ‘What Up, Nigger, giống như cô ấy cũng nói về những nô lệ. She always says like ‘what up, Nigger,’ like she talks about the slaves too.

Người phỏng vấn: Và làm thế nào để bạn phản ứng với một cái gì đó như vậy? And how do you react to something like that?

Người tham gia: Ừm Một lần tôi thực sự giận cô ấy, tôi bị xúc phạm và tôi muốn đấm vào mặt cô ấy.Nhưng tôi chỉ để nó đi.Voi Nó chỉ vì giống như, tôi không biết như đó là một chủ đề cảm động đối với tôi, như nô lệ.Bởi vì như những gì đã xảy ra với họ.Vì vậy, nó giống như, giống như tôi không có, có lẽ tôi đã có một ngày tồi tệ vào ngày hôm đó nhưng tôi nhớ tôi đã rất điên. Um one time I got really mad at her, I got offended and I wanted to punch her in the face. But I just let it go. … It’s just because like, I don’t know like that’s a touchy subject to me, like slaves. Because like what happened to them. So it’s just like, like I don’t, maybe I was having a bad day that day but I remember I just got so mad.

Một câu trả lời phổ biến hơn cho các câu hỏi về bản chất có hại của các trải nghiệm là sự bảo vệ của chúng (83%; n = 10).Trong một nhóm tập trung, một người đàn ông 17 tuổi được xác định là người Puerto Rico và Sicilia giải thích: Chúng tôi có những người bạn Tây Ban Nha, nhưng chúng tôi có thể nói với một người 'Được rồi, bạn là một người, nhưng chúng tôi không nói 'Mọi người gốc Tây Ban Nha đều là một Spic.' Mặc dù phần lớn những người tham gia không thừa nhận các khía cạnh tiêu cực của các tương tác này, nhưng sự bảo vệ của họ thường được kết hợp với nhận thức về cách người khác (đặc biệt là nhà nghiên cứu),có thể nhận thức được những hành vi như vậy.Một người tham gia cho biết, một loại khó giải thích.Nghe có vẻ phân biệt chủng tộc khủng khiếp, nhưng nó thực sự không.Những người tham gia phần lớn dường như nhận thức được rằng các trao đổi của họ có thể được coi là phân biệt chủng tộc hoặc phân biệt đối xử, nhưng họ không nhất thiết phải giải thích chúng theo cách đó.Với sự khăng khăng này về bản chất phi hiệu quả của những trải nghiệm này, chúng tôi đã chọn kiểm tra thêm nội dung của những trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc mà người tham gia đưa ra.

Nội dung

Với những người tham gia, các báo cáo chủ quan về những trải nghiệm này là không rõ ràng, chúng tôi đã phân tích nội dung để xem xét liệu các tương tác trêu chọc dân tộc/chủng tộc được báo cáo có khác với mô hình phân biệt đối xử điển hình trong đó các khuôn mẫu và định kiến là cơ chế cơ bản.Các phân tích chỉ ra rằng ba chủ đề đã nắm bắt được tất cả các kinh nghiệm về trêu chọc dân tộc/chủng tộc được cung cấp bởi những người tham gia: (a) sự hiện diện của một khuôn mẫu rõ ràng, (b) sự vắng mặt của một khuôn mẫu rõ ràng và (c) sự hiện diện của một khuôn mẫu ngầm.Tất cả ba chủ đề đã được xác định trong tất cả các cuộc phỏng vấn, vì vậy dữ liệu cấp độ kinh nghiệm được báo cáo.

Sự hiện diện của một khuôn mẫu rõ ràng bao gồm những trường hợp trong đó một thuật ngữ dân tộc/chủng tộc được kết hợp với một kỳ vọng được bình luận trực tiếp về thuật ngữ đã cho đó.Một người tham gia, một người đàn ông 16 tuổi được xác định là người gốc Tây Ban Nha và Dominican đã giải thích các tương tác với các bạn cùng nhóm của mình: Hồi Yeah Tôi chơi với họ, như ‘Ngừng là một người Mexico lười biếng và mặc trống.Trong tuyên bố này, cá nhân này một cách ngang nhiên đưa ra ý nghĩa (người lười biếng) của một thuật ngữ dân tộc nhất định (Hồi giáo Mexico) trong khuôn khổ hài hước (tôi chơi xung quanh với họ).Đây là hình thức phổ biến nhất của kinh nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc (55%; n = 47).

Sự vắng mặt của một khuôn mẫu rõ ràng bao gồm các kinh nghiệm trong đó một thuật ngữ dân tộc/chủng tộc được đưa ra mà không có ý nghĩa theo ngữ cảnh trực tiếp, và không có ý nghĩa rõ ràng nào.Một người tham gia 18 tuổi được xác định là người Latino mô tả: Nếu chúng ta cho cô ấy một cái gì đó cuối cùng, nếu cô ấy xảy ra để có được tôi không biết tiếng soda cuối cùng của soda, [cô ấy giống như] 'Tại sao vì tôi'M đen ?, 'Nhưng đó chỉ là tất cả trong niềm vui.Đây là những trường hợp trong đó trêu chọc dân tộc/chủng tộc dường như không liên quan nhất đối với tình huống rõ ràng, đến mức họ không có căn cứ ngay lập tức trong các khía cạnh rõ ràng của bối cảnh;Một nhãn hiệu chủng tộc đã được cung cấp (người da đen), nhưng ý nghĩa của nó không được đưa ra trực tiếp bởi người phạm tội hoặc lựa chọn thuật ngữ.Chủ đề này đã nắm bắt được 31% (n = 26) các ví dụ trêu chọc dân tộc/chủng tộc.

Sự hiện diện của một khuôn mẫu ngầm được đề cập đến các trường hợp trêu chọc dân tộc/chủng tộc trong đó thuật ngữ dân tộc/chủng tộc được sử dụng có ý nghĩa thiên vị theo cách riêng của nó, do đó việc sử dụng một thuật ngữ xúc phạm ngụ ý rập khuôn hoặc thiên vị.Điều này đã rõ ràng trong tuyên bố sau đây, cũng được cung cấp bởi người tham gia 18 tuổi được xác định là Latino:

Chúng tôi sẽ ở trên xe buýt và họ sẽ là người da đen trên xe buýt và một trong những người bạn khác của tôi sẽ nói như, Nigga hay bất cứ điều gì [cười].Chúng tôi sử dụng nó với những người da đen, không phải là người da đen.Vâng, vì bạn biết loại người da đen bị xúc phạm.

Việc sử dụng tiếng cười này được neo trong ý nghĩa lịch sử mang lại ý nghĩa rõ ràng cho tình huống mà không có bất kỳ tuyên bố trắng trợn nào;Có thể cho rằng, những bình luận như vậy có ý nghĩa trong ngay cả các cài đặt được giải mã nhất vì ý nghĩa lớn hơn của chúng.Đây là những trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc ít nhất được báo cáo (14%; n = 12).

AIM II: Trải nghiệm năng động

Để giải quyết mục đích thứ hai của nghiên cứu 1, chúng tôi đã khám phá bản chất năng động của những trải nghiệm này bằng cách xem xét nhiều vai trò mà một cá nhân có thể đóng.Do đó, dữ liệu ở cấp độ của trải nghiệm cụ thể về trêu chọc dân tộc/chủng tộc (n = 85) được báo cáo.Chúng tôi có chủ đích đánh giá ba vai trò khác nhau, bao gồm Target, thủ phạm và vai trò gián tiếp, thông qua ba câu hỏi riêng biệt được sử dụng trong tất cả các cuộc phỏng vấn.Đầu tiên, những người tham gia được hỏi về trải nghiệm nạn nhân của chính họ (tức là mục tiêu).Thứ hai, những người tham gia được yêu cầu suy nghĩ về một thời gian mà họ có thể đã đối xử với ai đó khác nhau dựa trên dân tộc/chủng tộc của họ (tức là, thủ phạm);Câu hỏi này đã được đặt vào cuối giao thức phỏng vấn để người phỏng vấn có thể phát triển mối quan hệ với người tham gia trước khi đặt ra một câu hỏi nhạy cảm như vậy.Thứ ba, những người tham gia được hỏi liệu họ đã nhìn thấy những người bạn hoặc bạn cùng lớp khác đối xử tệ vì dân tộc hay chủng tộc (tức là, Vicarious).Mặc dù chỉ hỏi về ba vai trò khác nhau này, một vai trò bổ sung và bất ngờ của sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc tự định hướng đã được báo cáo một cách nhất quán trong các cuộc phỏng vấn.Vai trò thứ tư này không được mong đợi là một tiên nghiệm và do đó không được thăm dò trực tiếp trong các cuộc phỏng vấn;Tuy nhiên, với sự nhất quán mà nó xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn, nó đã được đưa vào mã hóa và báo cáo ở đây.

Kinh nghiệm mục tiêu chiếm 42% (n = 36) của tất cả các tương tác trêu chọc dân tộc/chủng tộc được báo cáo.Trong ví dụ này, một người tham gia 17 tuổi được xác định là người gốc Tây Ban Nha và da trắng đã mô tả một trải nghiệm chung với bạn bè của mình: họ sẽ giống như 'oh, bạn là một kẻ buôn lậu ma túy Colombia' như không có gì khácNói, và họ sẽ chỉ nói điều đó.Tôi giống như ‘nhưng đó không phải là bất cứ điều gì liên quan đến nó!Một ví dụ được cung cấp bởi một người tham gia 17 tuổi, người được xác định là người Mỹ bản địa và người da đen ở đây:

Khi tôi làm quen với bạn hoặc bất cứ điều gì và sau đó tôi sẽ nói, tôi cũng nói những trò đùa nhỏ.Vâng, tất nhiên tôi sẽ.Tôi nói những trò đùa quá thích, ‘Bạn to Dominican bạn với bạn tôi‘ vì cô ấy rất ồn ào.Và sau đó, có một khuôn mẫu mà họ rất lớn nên tôi nói đùa về nó.

Vicarious experiences of teasing were the least mentioned roles, comprising 5% (n = 4) of ethnic/racial teasing reported. Here, a 16-year-old participant who identified as Hispanic and White explains an interaction between two peers:

One week we were talking about nominating who we want for student speaker and everyone’s like ‘Oh, nominate Brittany she’ll do such a good job’ and this kid Mark goes like, ‘Oh, is she the other Black girl who isn’t Alyssa?’ … and Alyssa just turns to him and she’s like ‘Mark, are you the other Asian boy who isn’t Dave?’, who’s the other Asian boy in our advisory. And then everyone laughed and like neither of them were upset, they were like ‘Oh, that was a good joke.’

Surprisingly, participants also reported instances of self-directed ethnic/racial teasing, in which individuals made fun of themselves. Self-directed ethnic/racial teasing made up 6% (n = 5) of reports. One participant, a 17-year-old male who identified as Colombian and Ecuadorian shared an example in which a friend was teasing him about matters unrelated to his race or ethnicity, and he responded by saying: “You’re picking on me ‘cause I’m [Hispanic] right? [laughter].” These roles were unexpected, as they refer to experiences where someone has chosen to call attention to or make publicly disparaging comments about his or her ethnicity/race intended to evoke humor. A 17-year-old participant who identified as African American provided some insight into this particular form of ethnic/racial teasing when she explained:

So I think making a joke about yourself is a lot easier than having someone else make a joke because what else can they say now? If they’re saying a joke to hurt you and you’ve already said it, then … there’s nothing else they can say.

This explanation suggests that self-directed ethnic/racial teasing may be a form of self-protection when individuals are worried about being the target of such a comment from another person. Overall, the experiences participants reported could be uniquely classified by these four roles (target, perpetrator, vicarious, and self-directed); however, all participants reported occupying multiple roles, and therefore these roles could not reliably distinguish between participants.

Discussion

Our results indicate that experiences of ethnic/racial discrimination occur between friends, but that such experiences are qualitatively different than typical conceptualizations of discrimination. Based on the results of Study 1, we define ethnic/racial teasing as a social interaction surrounding one’s ethnicity or race in which explicit or implicit prejudices are delivered under the guise of humor. The reports of ethnic/racial teasing that emerged from participants in this study were remarkably consistent, and the ease with which such experiences came to mind for adolescents (despite a lack of direct probing) suggests that ethnic/racial teasing experiences are salient for adolescents. Indeed, although it was not the explicit aim of Study 1 to examine experiences of ethnic/racial teasing per se, these were the most consistently reported experiences of adolescents in response to questions regarding ethnic/ racial discrimination among close peers and friends. The ability to explore themes that were not hypothesized a priori is a strength of the semistructured interview (Patton, 2005), and this inductive approach allowed us to explore experiences that youth provided on their own. Although psychological experiences of ethnic/racial teasing have not been examined or acknowledged within discrimination paradigms, it is perhaps not surprising that teasing is one way that youth are interacting around their ethnicity/race; indeed, teasing experiences have been recognized as a common yet difficult experience for youth to navigate (Eder, Evans, & Parker, 1995; Mooney, Creeser, & Blatchford, 1991).

These reports are consistent with research on colormuteness (Pollock, 2004). In her anthropological work examining high school students’ dialogues around race and ethnicity, Pollock provides examples of students engaging in what she calls “race teasing” (Pollock, 2004, p.46). For example, she describes instances of students reading their own poems modeled on a famous Chicano power manifesto and shouting their race at the end (e.g., “I’m black! I—am—black!” or “Filipino!”) while thrusting their fists in the air and laughing or smirking, behaviors which are reminiscent of the self-directed roles described in the current study. Throughout this ethnographic study Pollock also describes students dismissing instances of racism as “just a joke” (p.71), suggesting that there are significant contradictions between the ways that adolescents discuss the salience of race and stereotypes, yet simultaneously declare them irrelevant. This conclusion is resonant with inconsistencies in participants’ reports in the current study, in which they shared experiences that contained biased messages and derogatory words, yet declared that discrimination does not occur among their close peers by dismissing such experiences as teasing. Despite the rich qualitative data gathered and consistencies with previous anthropological work, the current study does not assess how often ethnic/racial teasing occurs for adolescents. Therefore, the frequency with which adolescents experience ethnic/racial teasing remains an empirical question.

In addition, these qualitative findings suggest that adolescents draw significantly different meaning from ethnic/racial teasing experiences than they do from traditional forms of discrimination. Adolescents were unanimous in their initial subjective reports, arguing that such interactions were not harmful or malicious, despite the negative ethnic/racial messages that were sometimes being delivered through them. Even when directly asked, only a small minority of participants admitted to the potentially harmful nature of these experiences. These reports are consistent with a general teasing framework; teasing is a common and socially acceptable form of interaction in social relationships (Keltner et al., 1998; Kowalski, 2001, 2003). Teasing behaviors are largely dictated by social norms, such that they only occur between individuals with an existing relationship, and researchers have suggested that teasing is in fact a way to take stock of or index intimacy between two people (Baxter, 1992); by engaging in teasing, individuals acknowledge a bond that is strong enough to tolerate such behavior (Roberts, Bell, & Murphy, 2008). These findings raise an important empirical question regarding whether ethnic/racial teasing is qualitatively different from discrimination not only in its form, but also perhaps in its impact; are ethnic/racial teasing experiences really innocuous teasing experiences, as participants’ subjective assessments in Study 1 would suggest, or are they associated with negative outcomes? To address these questions, we turn to Study 2.

Study 2

Aims

Based on these qualitative reports of ethnic/racial teasing, a quantitative study was designed to examine ethnic/racial teasing in adolescents’ everyday lives. The first goal of Study 2 was to quantitatively assess the frequency of ethnic/racial teasing for adolescents. Therefore, a daily diary method was used to capture potential experiences of ethnic/racial teasing as they were happening on a daily basis (Csikszentmihalyi & Larson, 1987); diary methods have been highlighted as a best practice for collecting accurate measurements when particular behaviors or events are being considered (Moskowitz & Russell, 2009). Based on the results of Study 1, it was expected that ethnic/racial teasing would be a common experience for adolescents, with multiple reports of such interactions occurring each week. Similarly, Study 1 suggests that ethnic/racial teasing would be largely occurring between close peers and friends given the nature of the interactions; however, in Study 2 we aimed to sample all ethnic/racial teasing interactions that adolescents experience for a comprehensive assessment. It was further expected that across a number of days, participants would report engaging in ethnic/racial teasing in a variety of different ways (e.g., each participant would report multiple roles). By having participants repeatedly report their experiences (i.e., on a daily basis), these differing roles could be captured.

The second goal of Study 2 was to assess the association between daily ethnic/racial teasing and mental health indicators of general anxiety and social anxiety to consider whether such experiences were as innocuous as participants’ reports suggested in Study 1. Consistent with discrimination perspectives, it was expected that individuals would have higher levels of general anxiety and social anxiety on days when they were the target of ethnic/racial teasing or when they experienced ethnic/racial teasing vicariously (Gee, Walsemann, & Brondolo, 2012; Ong, Burrow, Fuller-Rowell, Ja, & Sue, 2013; Spencer, 2006). That is, it was expected that despite the supposedly humorous masking, ethnic/racial teasing would have adverse effects for youth who were targeted directly by the comments, or who witnessed another being targeted. Contrastingly, self-directed and perpetrator experiences were not expected to be related to daily anxiety symptoms, as adolescents can control whether or not to engage in such experiences, thereby minimizing the associated anxiety around such experiences (Chorpita & Barlow, 1998).

The third goal of Study 2 was to assess how individual differences in stable anxiety would influence the meaning of ethnic/racial teasing interactions for adolescents. Daily diary methods are uniquely poised to address such person (i.e., individual differences in anxiety) by context (i.e., experiences of ethnic/racial teasing) interactions (Magnusson & Stattin, 1998). Given the reports in Study 1 that ethnic/racial teasing was not negative, we considered whether some adolescents may interpret the “humorous” component of such experiences differently than others. Experimental research suggests that individual differences in anxiety influence how threatening information is processed (Mathews & MacLeod, 1986); individuals with high anxiety are more likely than individuals with low anxiety to interpret stressors in their environment as threatening (Bar-Haim, Lamy, Pergamin, Bakermans-Kranenburg, & van IJzendoorn, 2007). Given the ambiguous nature that the use of supposed humor lends, it was expected that adolescents with high stable anxiety would interpret ethnic/racial teasing as more threatening than their peers with low stable anxiety, and subsequently display more negative outcomes.

Method

Participants

Participants were 79 adolescents (Mage = 15.72, SDage = .68, 64.6% female) who self-identified as Hispanic or Latino/a (43%), White or European American (24%), Asian or Asian American (19%), Black, African American, or West Indian (8%), or Other (including American Indian, Native American, and not listed; 6%).

Procedure

Although participants were recruited from the same two high schools as in Study 1, the samples were selected from different grades to prevent overlap between the two studies. Parental consent and assent forms were distributed to all 10th grade students two weeks prior to the study. Participants took part in an orientation session on Day 1 where they completed presurvey measures. On Day 1 participants also began the daily diary portion of the study, completing brief measures online prior to going to bed for 21 days. On average, participants completed 15 of 21 daily surveys (SD = 5.87); across the sample, 28.6% of daily diary surveys were missing. Participants completed daily surveys in an average of 11.5 minutes. After three weeks, participants returned for a final debriefing session and were compensated $50.00 for their participation; 100% of participants returned for the final debriefing session.

Person-level measures: Trait anxiety

Trait anxiety was assessed as part of the presurvey using the trait anxiety subscale of the State–Trait Anxiety Inventory (STAI; Spielberger, Gorsuch, & Lushene, 1970). This subscale conceptualizes anxiety as a personality trait, and includes 12 items (e.g., “I feel like a failure”). Responses ranged from 1 (almost never) to 4 (almost always) (M = 2.04, SD = 0.50, = − .90), with higher scores indicating higher anxiety symptoms.

Daily measures

Ethnic/racial teasing frequency

Participants were prompted to “Think of any teasing interactions you witnessed today, including any you made yourself or heard someone else say” and were then asked to indicate the subject of these interactions from a given list including politics, gender, race or ethnicity, and so forth. If participants did not self-select “Race or ethnicity” they were asked “Did you hear or were you involved in any jokes about race or ethnicity today?” as a secondary measure. Participants then described the content of the interaction in an open-ended response. Screening of these responses resulted in three cases (<1%) being excluded from analyses, as they did not meet the criteria for ethnic/racial teasing (i.e., did not include either explicit or implicit references to race or ethnicity).

Ethnic/racial teasing role

When participants indicated experiencing ethnic/racial teasing, they also indicated their role by identifying “Who was the person who made the teasing comment?” (I did/Someone else did) and “Who was the comment directed at?” (Myself/Someone else). Based on the different constellation of responses to these two questions, the four targeted roles (i.e., target, perpetrator, self-directed, vicarious) were uniquely assessed for each reported experience of ethnic/racial teasing.

State anxiety

A 4-item abbreviated version of the 8-item State Anxiety subscale from the STAI was used to assess daily anxiety (Spielberger et al., 1970). Participants responded to items that had been altered to the past tense and referred to the given day (e.g., “I felt like a failure today” vs. the standard form of “I feel like a failure”). Responses ranged from 1 (not at all) to 4 (all the time; M = 1.90, SD = 0.42, = α .84).

Social anxiety

A 3-item abbreviated version of the 8-item Fear of Negative Evaluation (FNE) subscale of the Social Anxiety Scale for Adolescents (SAS-A; La Greca & Lopez, 1998) was used to assess social anxiety. Once again, items were altered to the past tense and referred to the past day (e.g., “I worried about what others said about me today”). Responses ranged from 1 (not at all) to 4 (all the time; M = 1.75, SD = 0.81, = α .89).

Results

Analytic plan

To address the first study aim, the prevalence of daily ethnic/racial teasing was assessed by examining average experiences reported across individuals and the distribution of roles (i.e., target, perpetrator, self-directed, vicarious). To address the second study aim, the associations between same-day ethnic/racial teasing and anxiety outcomes were examined using two-level intercepts-and-slopes-as-outcomes models using hierarchical linear modeling techniques in HLM (Raudenbush, Bryk, & Congdon, 2004). Correlations among daily general anxiety and social anxiety were modest (average r = .44; SD = .06, range .34 –.56), and therefore daily general anxiety and social anxiety outcomes were modeled separately.

First, main effects of daily ethnic/racial teasing roles on same-day anxiety and social anxiety were modeled at level 1, controlling for trait anxiety at level 2. Missing data at Level 1 were handled in HLM by weighting individual estimates according to empirical Bayes theory. Next, interactions between trait anxiety at level 2 and ethnic/racial teasing roles at level 1 were considered. To probe significant cross-level interactions, simple slopes analyses examined results at ±1 SD around the mean for trait anxiety. Finally, time-lag models were used to examine the association between previous-day ethnic/racial teasing (d = 1) and anxiety outcomes (d) to assess whether such experiences had carry-over effects. Main effects and moderation models used to examine the same-day associations were replicated for the cross-day associations. For clarity, results from the same-day and time-lag models are presented concurrently.

Control variables

Gender, school of recruitment, day type (weekday, weekend), and day of study (1–21) were examined as possible control variables. Gender was unrelated to daily ethnic/racial teasing and schools accounted for less than 1% of the variance in ethnic/racial teasing so they were not retained in the models. Day type (weekday vs. weekend) and day of study (1–21) were significantly related to daily ethnic/racial teasing; adolescents were more likely to report ethnic/racial teasing on weekdays than weekends, χ2(1) =14.68, p < .001, and were less likely to report ethnic/racial teasing as the study progressed (b= −.12, SE = .02, p < .001). Day type and day of study were therefore retained as control variables at level 1.

Aim I: Prevalence

Adolescents reported an average of 3.49 ethnic/racial teasing experiences (SD = 2.58) over three weeks, with a range from 1 to 14 reported experiences across participants. Across the course of the study, a total of 396 experiences of ethnic/racial teasing were reported by all participants. There was high variability in the frequency of roles; of all ethnic/racial teasing experiences reported by participants, vicarious roles were the most frequently reported (58.6%; n = 232), followed by target roles (22.2%; n = 88), perpetrator roles (12.1%; n = 48), and finally self-directed roles (7%; n = 28).

Aim II: Ethnic/racial teasing and daily anxiety

Main effects of roles

Results indicated marginal differences in the relationships between roles in ethnic/racial teasing and same-day anxiety, with the trend indicating that adolescents felt slightly higher anxiety on days when they were targets of ethnic/racial teasing compared to days when they experienced no teasing (b = .12, SE = .06, p = .07). Time-lag results indicated that this marginal effect was not significant across days.

Results also indicated significant differences in the relationships between roles and same-day social anxiety, such that adolescents felt higher social anxiety on days when they were targets of ethnic/racial teasing compared to days when they experienced no teasing (b = .35, SE = .15, p < .05). Time-lag results confirmed these findings, as adolescents also felt higher social anxiety when they had been a target of ethnic/racial teasing on the previous day compared to when they had experienced no teasing on the previous day (b = .20, SE = .09, p < .05).

Trait anxiety moderation

Next, trait anxiety was examined as a moderator of the relationship between roles in ethnic/racial teasing and daily anxiety and social anxiety.

Daily anxiety

Trait anxiety significantly moderated the relationship between self-directed ethnic/racial teasing and same-day anxiety (b= −.58, SE = .21, p < .01; see Figure 1A). Individuals with low trait anxiety felt more anxious when they made a self-directed ethnic/racial teasing comment than on days when they did not experience ethnic/racial teasing (b = .39, SE = .14, p < .01). There was no effect, however, for individuals with high trait anxiety (b = −.18, SE = .21, p < .39). Secondary analyses indicated that on days in which no ethnic/racial teasing was reported, adolescents with high levels of trait anxiety reported feeling more anxious on a daily basis than their peers with low trait anxiety (b = .48, SE = .09, p < .001). When they engaged in self-directed ethnic/racial teasing, however, there were no differences in daily anxiety between high and low trait anxiety adolescents (b = −.10, SE = .23, p < .69). Time-lag results indicated that this effect was not significant across days. Further, trait anxiety did not moderate the same-day or time-lag associations between target, victim, or vicarious roles with daily anxiety.

Top 10 truyện cười phân biệt chủng tộc hay nhất năm 2022

A, The relationship between daily ethnic/racial teasing roles and daily anxiety moderated by trait anxiety. ** p <.01, ***p < .001. Significant differences noted on the axis labels indicate between-person differences for that role. Significant differences noted on the graph indicate within-person differences from no teasing experiences. B, The relationship between daily ethnic/racial teasing roles and daily social anxiety moderated by trait anxiety. + p < .05, *p < .05, ** p < .01, *** p < .001. Significant differences noted on the axis labels indicate between-person differences for that role. Significant differences noted on the graph indicate within-person differences from no teasing experiences.

Daily social anxiety

Trait anxiety significantly moderated the relationship between self-directed ethnic/racial teasing and same-day social anxiety (b = −1.41, SE = .31, p < .001; see Figure 1B). Results indicated that individuals with low trait anxiety felt more socially anxious when they made a self-directed ethnic/racial teasing comment than on days when they did not experience ethnic/racial teasing (b = .99, SE = .14, p < .001). Individuals with high trait anxiety, however, felt less socially anxious when they made a self-directed ethnic/racial teasing comment (b= −.41, SE = .20, p < .05). Secondary analyses indicated that adolescents with high trait anxiety reported feeling more socially anxious than their peers with low trait anxiety on days when they experienced no ethnic/racial teasing (b = .51, SE = .18, p < .01). When they engaged in self-directed ethnic/racial teasing, however, individuals with high trait anxiety reported feeling less socially anxious than their peers with low trait anxiety (b = −.90, SE = .36, p = .01). Time-lag results indicated that trait anxiety significantly moderated the relationship between previous-day self-directed ethnic/racial teasing and social anxiety (b= −6.43, SE = 1.24, p < .001), and the nature of these findings was consistent with the same-day associations.

Lo lắng đặc điểm cũng kiểm duyệt đáng kể mối quan hệ giữa các vai trò mục tiêu (b = .84, SE = .36, p <.05) và lo lắng xã hội.Những người có lo lắng đặc điểm cao đã trải qua nhiều lo lắng xã hội hơn khi họ bị nhắm mục tiêu trêu chọc dân tộc/chủng tộc so với những ngày họ không trải qua trêu chọc dân tộc/chủng tộc (B = .57, SE = .20, p .01).Không có tác dụng cho những người có lo lắng đặc điểm thấp, (b = −.27, se = .14, p <.07).Các phân tích thứ cấp chỉ ra rằng thanh thiếu niên với sự lo lắng về đặc điểm cao báo cáo cảm thấy lo lắng xã hội hơn so với các đồng nghiệp của họ với sự lo lắng về đặc điểm thấp khi họ là mục tiêu của trêu chọc dân tộc/chủng tộc (b = 1,35, SE = .41, p <0,001).Kết quả độ trễ thời gian chỉ ra rằng sự lo lắng đặc điểm đã kiểm duyệt đáng kể mối quan hệ giữa các vai trò mục tiêu ngày trước và lo lắng xã hội (B = .60, SE = .14, p <.001) và bản chất của những phát hiện này phù hợp với cùng mộtHiệp hội ngày.Lo lắng đặc điểm không kiểm duyệt mối liên hệ cùng ngày hoặc thời gian giữa các vai trò thủ phạm hoặc gián tiếp với sự lo lắng xã hội hàng ngày.

Thảo luận

Sử dụng các phương pháp định lượng, Nghiên cứu 2 chỉ ra rằng các trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc nói chung là tương đối thường xuyên đối với thanh thiếu niên và các vai trò họ đóng trong các tương tác như vậy có thể khác nhau.Những kết quả này cũng cho thấy rằng những trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể là tiêu cực đối với thanh thiếu niên về lo lắng và lo lắng xã hội, nhưng những kinh nghiệm này phụ thuộc (a) vai trò của từng người trong trải nghiệm (tức là, sự khác biệt tình huống) và (B) Mức độ lo lắng ổn định (nghĩa là, sự khác biệt cá nhân).Việc thiếu những phát hiện cho vai trò gián tiếp phù hợp với nghiên cứu trước đây về sự phân biệt đối xử gián tiếp, điều này cho thấy những kinh nghiệm như vậy không ảnh hưởng tiêu cực đến bên thứ ba (Tynes et al., 2008).Tuy nhiên, là mục tiêu của trêu chọc dân tộc/chủng tộc và khi đưa ra những bình luận tự định hướng, thanh thiếu niên cảm thấy lo lắng xã hội hơn cả vào ngày hôm đó và ngày hôm sau, và những kết quả tiêu cực này phù hợp với kinh nghiệm chung về sự phân biệt đối xử (ví dụ, Cassidy, O'Connor, Howe, & Warden, 2004).Đổi lại, điều này cho thấy rằng mặc dù có sự hài hước được cho là, những kinh nghiệm về trêu chọc dân tộc/chủng tộc trên thực tế có thể có hại.Mặc dù nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên của chúng tôi để xem xét trực tiếp sự lo lắng xã hội trong khuôn khổ phân biệt đối xử, nhưng nó phù hợp với nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng thanh thiếu niên là người có nạn nhân bằng lời nói lo lắng xã hội (ví dụ: Storch, Brassard, & Masia-Warner, 2003)và phù hợp với các giả thuyết rằng bản chất của trêu chọc dân tộc/chủng tộc làm cho nó đặc biệt phù hợp với lo lắng về kinh nghiệm giữa các cá nhân.

Ngược lại, các hiệu ứng cho sự lo lắng chung dường như không đủ mạnh để vượt ra ngoài trải nghiệm hàng ngày.Theo các mô hình căng thẳng trong quá khứ (ví dụ, Selye, 1973), có thể những người tham gia trải qua giai đoạn báo động ban đầu sau khi tương tác trêu chọc dân tộc/chủng tộc, được đặc trưng bởi sự tăng đột biến trong các triệu chứng lo lắng kéo dài 24 giờ hoặc ít hơn và làm lại khi những người tham giaChống lại những ảnh hưởng của căng thẳng.Ngược lại, các tác động cho sự lo lắng xã hội dường như kéo dài qua nhiều ngày, cho thấy những tương tác này đặc biệt nổi bật đối với những người trẻ tuổi lo ngại về ngoại hình xã hội của họ.Mặc dù có tài liệu đã theo dõi các tác động lâu dài của căng thẳng liên quan đến chủng tộc tích lũy (Brody et al., 2014), quá trình căng thẳng liên quan đến căng thẳng chủng tộc hàng ngày vẫn là một câu hỏi thực nghiệm.

Nghiên cứu này cũng chứng minh rằng vai trò mục tiêu và tự định hướng là những trải nghiệm rất khác nhau đối với thanh thiếu niên tùy thuộc vào các đặc điểm cá nhân mà họ mang lại cho sự tương tác.Trong nghiên cứu hiện tại, thanh thiếu niên có mức độ lo lắng cao, những người được nhắm mục tiêu cho trêu chọc dân tộc/chủng tộc báo cáo cảm thấy lo lắng hơn về mặt xã hội, trong khi các đồng nghiệp lo lắng thấp của họ không bị ảnh hưởng bởi những trải nghiệm đó.Những phát hiện này phù hợp với nghiên cứu về các thành kiến xử lý chọn lọc đã chỉ ra rằng những người có lo lắng cao tự động xử lý thông tin đe dọa với tốc độ cao hơn những người khác so với các đồng nghiệp lo lắng đặc điểm thấp của họ (Macleod & Rutherford, 1992), cũng như nghiên cứu về sự khác biệt cá nhântrong phản ứng với các sự kiện căng thẳng (Bolger & Schilling, 1991).Hơn nữa, sự khác biệt dựa trên vai trò không có gì đáng ngạc nhiên khi có cơ quan khác nhau giữa họ;Một cá nhân không thể kiểm soát liệu người khác có làm anh ấy vui hay không, nhưng cá nhân đó có thể quyết định có làm anh ấy/cô ấy vui vẻ hay không.Nhìn chung, các kết quả định lượng này cho thấy các trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc thường là tiêu cực đối với thanh thiếu niên, mặc dù ý nghĩa của chúng rất phức tạp và khác nhau giữa mọi người và các tình huống.

thảo luận chung

Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu khám phá sự phân biệt chủng tộc/chủng tộc và kinh nghiệm trêu chọc nói chung, nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên xem xét thực nghiệm ý nghĩa và tác động của những trường hợp độc đáo mà hai người xảy ra đồng thời.Sử dụng một thiết kế phương pháp hỗn hợp tuần tự khám phá, khám phá (Creswell & Plano Clark, 2007), chúng tôi đã xác định những trải nghiệm chưa từng thấy trước đây về trêu chọc dân tộc/chủng tộc giữa thanh thiếu niên và điều tra những trải nghiệm hàng ngày về chúng.Việc trêu chọc dân tộc/chủng tộc đã được thảo luận trong tất cả các cuộc phỏng vấn trong Nghiên cứu 1 mà không được nhắc nhở rõ ràng cho thấy rằng trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể là một cách mà thanh thiếu niên thường xuyên tương tác với nhau về dân tộc/chủng tộc.Ngoài ra, những người tham gia nghiên cứu 1 này khẳng định kinh nghiệm về trêu chọc dân tộc/chủng tộc là vô hại trong các mạng lưới ngang hàng của họ cho thấy các tương tác như vậy được coi là thanh thiếu niên và vô hại.Tuy nhiên, kết quả của Nghiên cứu 2 cho thấy rằng các trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc thường xuyên có liên quan đến sự lo lắng hàng ngày tăng lên và, như vậy, có thể là những trải nghiệm tiêu cực cho thanh thiếu niên.

Xem xét ý nghĩa của sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc

Các báo cáo về trêu chọc dân tộc/chủng tộc trong nghiên cứu 1 phù hợp với nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng kinh nghiệm trêu chọc nói chung là phổ biến trong thời niên thiếu (Jones, Newman, & Bautista, 2005; Sanford & Eder, 1984) và thậm chí có thể là một phần thiết yếu củaVăn hóa vị thành niên (Jones et al., 2005, trang 421).Chỉ dựa trên các báo cáo chủ quan của người tham gia được tập hợp trong Nghiên cứu 1, người ta có thể kết luận rằng trêu chọc dân tộc/chủng tộc phản ánh các hành vi trêu chọc điển hình là phổ biến ở tuổi thiếu niên, và do đó thanh thiếu niên, phụ huynh, giáo viên, quản trị viên trường học và các bên liên quan khác không nên quan tâm đếntương tác.Tuy nhiên, nhiều thập kỷ nghiên cứu về phân biệt đối xử chỉ ra rằng các thông điệp tiêu cực như những thông điệp có trong các ví dụ về trêu chọc dân tộc/chủng tộc trong nghiên cứu 1 tháng 5, trên thực tế, là bất lợi (xem Pascoe & Smart Richman, 2009).

Nghiên cứu 2 đưa ra bằng chứng cho thấy những trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể là tiêu cực cho thanh thiếu niên.Thông qua việc đánh giá một cách định lượng kinh nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc, rõ ràng có những tác động tiêu cực của các tương tác như vậy đối với thanh thiếu niên lo lắng hàng ngày và lo lắng xã hội;Cụ thể, đối với thanh thiếu niên không có cơ quan về các tương tác (tức là, kinh nghiệm mục tiêu và gián tiếp), và cho thanh thiếu niên lo lắng.Kết quả của Nghiên cứu 2 nêu bật sự phức tạp của việc tạo ra ý nghĩa xung quanh sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc, vì ý nghĩa của sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc dường như thay đổi dựa trên cách cụ thể mà cá nhân có liên quan đến sự khác biệt và sự khác biệt cá nhân mà họMang đến các tình huống.Sự thay đổi này trong cách thanh thiếu niên trải qua trêu chọc dân tộc/chủng tộc từ ngày này sang ngày khác và từ người này sang người khác làm nổi bật một trong những khía cạnh nghịch lý của trêu chọc: nó chứa cả các thành phần xã hội và chống đối (Jones et al., 2005; Keltner et al., 1998).Kết quả là, việc tạo ra ý nghĩa của những trải nghiệm như vậy là phức tạp.Nếu trêu chọc dân tộc/chủng tộc được hiểu là một hình thức phân biệt đối xử, thì có lẽ nó phù hợp nhất trong khuôn khổ vi phạm ở chỗ mục đích của thủ phạmvà các biến theo ngữ cảnh (Sue et al., 2008).Mặc dù trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể không phải lúc nào cũng tinh tế, nhưng các thiết lập thân thiện trong đó chúng đang xảy ra và việc sử dụng sự hài hước có thể cho phép thanh thiếu niên làm chệch hướng ý nghĩa, nhưng khiến họ tự hỏi về ý định và ý nghĩa tiềm ẩn của các tương tác đó.Những kết quả này cho thấy các tương tác như vậy không nên bị loại bỏ là quy phạm hoặc vô hại, nhưng nên được xem xét với các hình thức phân biệt đối xử tinh tế khác.

Ý nghĩa phát triển

Sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc xảy ra trong thời niên thiếu làm tăng những cân nhắc phát triển hấp dẫn.Tuổi vị thành niên là thời kỳ phát triển bản sắc tích cực (Erikson, 1968) trong đó bản sắc dân tộc nói riêng đang được đàm phán (Phinney, 1989).Hơn nữa, ảnh hưởng của tình bạn và phản hồi ngang hàng đặc biệt mạnh mẽ trong thời niên thiếu.Kinh nghiệm xã hội thanh thiếu niên có liên quan đến dân tộc/chủng tộc trở nên gắn bó với cách họ nhìn nhận bản thân và các đồng nghiệp của họ (Selman, 1980).Những cân nhắc phát triển này có thể có ý nghĩa đối với cả tần suất và ý nghĩa của trêu chọc dân tộc/chủng tộc.Đó là, trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể là một hình thức phân biệt đối xử duy nhất đối với tuổi thiếu niên, và sự phổ biến giữa các nhóm bạn có thể chỉ ra rằng trêu chọc dân tộc/chủng tộc là một hình thức xã hội hóa quy phạm.Điều này có khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng, do sự phân biệt đối xử ngang hàng có thể có tác động sức khỏe tâm thần lớn hơn so với phân biệt đối xử người lớn (Greene et al., 2006).

Hạn chế và hướng đi trong tương lai

Nghiên cứu hiện tại có những hạn chế có thể thông báo cho cuộc điều tra trong tương lai.Đầu tiên, cách mà bạn bè và tình bạn được xác định trong suốt nghiên cứu 1 và nghiên cứu 2 không đại diện cho một hoạt động hữu hạn hoặc toàn diện của các mối quan hệ ngang hàng.Trong nghiên cứu 1, thuật ngữ bạn bè của người Hồi giáo không được xác định rõ ràng cho người tham gia, vì vậy có thể một số người tham gia giải thích thuật ngữ này khác với những người khác.Ví dụ, một số người tham gia có thể đã bao gồm người quen theo định nghĩa của riêng họ về bạn bè, trong khi một số người tham gia có thể chỉ xem xét những người bạn tốt nhất của họ.Mặc dù điều này giới hạn sự hiểu biết học thuật của chúng tôi về các thông số chính xác về sự thân mật trong đó đang diễn ra trêu chọc dân tộc/chủng tộc, chúng tôi tin rằng cách tiếp cận như vậy phù hợp với khung Pvest (Spencer, 1995) bằng cách đặt ưu tiên cho quan điểm của cá nhân và xử lýkinh nghiệm của chính mình.Trong nghiên cứu 2, chúng tôi đã kiểm tra những kinh nghiệm về trêu chọc dân tộc/chủng tộc mà không xác định rằng các tương tác diễn ra trong tình bạn.Do đó, không có trường hợp nghiên cứu 2 mở rộng kết quả của Nghiên cứu 1 để kiểm tra tác động của trêu chọc dân tộc/chủng tộc giữa bạn bè, mà là bổ sung cho nó.Đưa ra các mô tả về những kinh nghiệm này được cung cấp trong nghiên cứu 1 và nghiên cứu trước đây về hình thức và bản chất của các tương tác trêu chọc nói chung, người ta hy vọng rằng các tương tác như vậy trên thực tế sẽ diễn ra giữa các đồng nghiệp thân thiết hoặc bạn bè.Tuy nhiên, nghiên cứu này không đề cập đến việc liệu các trêu chọc dân tộc/chủng tộc chỉ xảy ra ở bạn bè.Nghiên cứu trước đây về kinh nghiệm trêu chọc nói chung cho thấy rằng bản chất của các tương tác trêu chọc thay đổi dựa trên loại mối quan hệ giữa hai người (tức là, sự gần gũi, tình trạng xã hội;và các mối quan hệ hiện có.Nếu các tương tác trêu chọc dân tộc/chủng tộc đang diễn ra trong và ngoài tình bạn, thì xếp hạng chất lượng quan hệ như sự gần gũi và sự thân mật có thể là một người điều hành quan trọng.

Ngoài ra, nghiên cứu hiện tại đã kiểm tra kinh nghiệm của thanh thiếu niên ở hai trường trung học ở một khu vực đô thị lớn, nơi sự đa dạng của cơ thể học sinh và các cộng đồng xung quanh rất cao, đặc biệt so với phần còn lại của Hoa Kỳ.Với bối cảnh hạn chế này và số lượng thanh thiếu niên tương đối nhỏ có kinh nghiệm được thể hiện trong nghiên cứu, nghiên cứu hiện tại không thể giải quyết sự phổ biến của sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc trong tuổi thiếu niên.Một con đường quan trọng cho nghiên cứu trong tương lai là tái tạo những phát hiện rằng kinh nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc xảy ra đối với thanh thiếu niên một cách thường xuyên trong các bối cảnh khác.Một con đường thứ hai cho nghiên cứu trong tương lai là xem xét sự đa dạng của bối cảnh trường học có thể đóng một vai trò trong tần suất và ý nghĩa của sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc.Thật vậy, trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể có nhiều khả năng xảy ra trong các môi trường rất đa dạng và có thể có ý nghĩa khác nhau so với các trường đồng nhất hơn.Thật không may, không có đủ sự thay đổi giữa hai trường trung học trong nghiên cứu hiện tại để điều tra một cách có hệ thống những ảnh hưởng của bối cảnh đó.Các nghiên cứu trong tương lai có thể lấy mẫu từ nhiều trường với một loạt các sinh viên đa dạng và kiểm tra học sinh Kinh nghiệm về sự trêu chọc dân tộc/chủng tộc trong các môi trường học đường này.Liên quan, tần suất và ý nghĩa của các trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc có thể bị ảnh hưởng bởi cách mà một cá nhân nằm trong các bối cảnh như vậy, bao gồm cả việc họ là thiểu số hay đa số trong cả nhóm bạn và bối cảnh trường học.Mặc dù những người tham gia da trắng được đưa vào nghiên cứu hiện tại, nhưng không có đủ người tham gia da trắng để xem xét trải nghiệm của họ có thể là duy nhất từ các đồng nghiệp dân tộc thiểu số/chủng tộc của họ.

Liên quan, thành phần dân tộc/chủng tộc của các bối cảnh ngay lập tức trong đó các trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc đang xảy ra có thể có ý nghĩa đối với tần suất và ý nghĩa của những kinh nghiệm này (Graham, Munniksma, & Juvonen, 2014; Vervoort, Scholte, & Overbeek, 2010).Ví dụ, liệu một thanh thiếu niên là thiểu số duy nhất trong nhóm bạn có thể tạo ra một động lực khác với một thanh thiếu niên trong một nhóm những người bạn đa dạng về dân tộc.Nghiên cứu hiện tại không xem xét thành phần dân tộc/chủng tộc của tình bạn, và do đó, nghiên cứu trong tương lai nên kết hợp sự cân nhắc này như một người điều hành tiềm năng.Cuối cùng, tư cách thành viên trong nhóm và nhóm ngoài nhóm cũng có thể đóng một vai trò;Ví dụ, nếu một cá nhân trải nghiệm sự tương tác gián tiếp, trong đó một thành viên trong nhóm là mục tiêu, anh ta hoặc cô ta có thể cảm thấy bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi trải nghiệm so với việc mục tiêu là một thành viên ngoài nhóm.Nghiên cứu hiện tại đã không xem xét sắc thái này, mà nghiên cứu trong tương lai nên xem xét liên quan đến tất cả các vai trò.

Bản tóm tắt

Tóm lại, công việc này cho thấy những trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc là nổi bật giữa các đồng nghiệp thân thiết và bạn bè trong thời niên thiếu.Kết hợp lại với nhau, những nghiên cứu này cho thấy rằng những trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc là một cách phổ biến mà thanh thiếu niên giao tiếp giữa các đồng nghiệp của họ về dân tộc/chủng tộc, đưa ra bằng chứng thực nghiệm đầu tiên rằng các thông điệp tiêu cực có khả năng xung quanh dân tộc/chủng tộc đang được trao đổi trong những không gian thân thiện như vậy.Hơn nữa, kết quả từ Nghiên cứu 2 cho thấy rằng khi trải nghiệm trêu chọc dân tộc/chủng tộc xảy ra, họ có thể không vô hại như báo cáo của thanh thiếu niên về những kinh nghiệm như vậy được đề xuất trong nghiên cứu 1. Mặc dù kết quả của hai nghiên cứu này mang lại sự hiểu biết ban đầu về dân tộc/chủng tộcTrêu chọc, vẫn còn nhiều câu hỏi thực nghiệm liên quan đến những trải nghiệm này có ý nghĩa gì đối với thanh thiếu niên.Như vậy, nghiên cứu trong tương lai nên xem xét các loại mối quan hệ cụ thể trong đó xảy ra trêu chọc dân tộc/chủng tộc, cũng như các tác động tâm lý tích cực và tiêu cực khác đối với thanh thiếu niên, để hiểu toàn diện hơn về sự tương đồng về khái niệm và sự khác biệt giữa trêu chọc dân tộc/chủng tộc và phân biệt đối xử.

Thông tin đóng góp

Sara Doulass, Trường Động lực xã hội và gia đình T. Denny Sanford, Đại học bang Arizona. T. Denny Sanford School of Social and Family Dynamics, Arizona State University.

Sheena Mirpuri, Khoa Tâm lý học, Đại học Fordham. Department of Psychology, Fordham University.

Devin English, Khoa Tâm lý học, Đại học George Washington. Department of Psychology, George Washington University.

Tiffany Yip, Khoa Tâm lý học, Đại học Fordham. Department of Psychology, Fordham University.

Người giới thiệu

  • Armenta là, Hunt JS.Đáp lại sự mất giá của xã hội: Ảnh hưởng của sự phân biệt đối xử cá nhân và nhóm đối với việc xác định nhóm dân tộc và lòng tự trọng cá nhân của thanh thiếu niên Latino/Latina.Quy trình nhóm & Quan hệ giữa các nhóm.2009; 12: 23 trận39.http://dx.doi.org/10.1177/1368430208098775.[Học giả Google]Group Processes & Intergroup Relations. 2009;12:23–39. http://dx.doi.org/10.1177/1368430208098775. [Google Scholar]
  • Bandura A. Các nền tảng xã hội của tư tưởng và hành động: Một lý thuyết nhận thức xã hội.Vách đá Englewood, NY: Hội trường Prentice;1986. [Học giả Google]Social foundations of thought and action: A social cognitive theory. Englewood Cliffs, NY: Prentice Hall; 1986. [Google Scholar]
  • Bar-Haim Y, Lamy D, Pergamin L, Bakermans-Kranenburg MJ, Van Ijzendoorn MH.Sự thiên vị chú ý liên quan đến mối đe dọa ở những người lo lắng và không đáng tin cậy: Một nghiên cứu phân tích tổng hợp.Bản tin tâm lý.2007; 133: 1 trận24.http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.133.1.1.[PubMed] [Học giả Google]Psychological Bulletin. 2007;133:1–24. http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.133.1.1. [PubMed] [Google Scholar]
  • Baxter LA.Các hình thức và chức năng của trò chơi thân mật trong các mối quan hệ cá nhân.Nghiên cứu truyền thông của con người.1992; 18: 336 Từ363.http://dx.doi.org/10.1111/j.1468-2958.1992.tb00556.x.[Học giả Google]Human Communication Research. 1992;18:336–363. http://dx.doi.org/10.1111/j.1468-2958.1992.tb00556.x. [Google Scholar]
  • Benner AD, Graham S. Các tiền đề và hậu quả của sự phân biệt chủng tộc/sắc tộc trong thời niên thiếu: Nguồn gốc của vấn đề phân biệt đối xử?Tâm lý học phát triển.2013; 49: 1602 Từ1613.http://dx.doi.org/10.1037/a0030557.[PubMed] [Học giả Google]Developmental Psychology. 2013;49:1602–1613. http://dx.doi.org/10.1037/a0030557. [PubMed] [Google Scholar]
  • Bolger N, Schilling EA.Tính cách và các vấn đề của cuộc sống hàng ngày: Vai trò của chủ nghĩa thần kinh trong phơi nhiễm và phản ứng với các yếu tố gây căng thẳng hàng ngày.Tạp chí tính cách.1991; 59: 355 Từ386.http://dx.doi.org/10.1111/j.1467-6494.1991.tb00253.x.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Personality. 1991;59:355–386. http://dx.doi.org/10.1111/j.1467-6494.1991.tb00253.x. [PubMed] [Google Scholar]
  • Brody GH, Lei MK, Chae DH, Yu T, Kogan SM, Beach SR.Nhận thức về sự phân biệt đối xử giữa thanh thiếu niên người Mỹ gốc Phi và tải trọng phân bổ: phân tích theo chiều dọc với các hiệu ứng đệm.Sự phát triển của trẻ.2014; 85: 989 Từ1002.http://dx.doi.org/10.1111/cdev.12213.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Child Development. 2014;85:989–1002. http://dx.doi.org/10.1111/cdev.12213. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Cassidy C, O hèConnor RC, Howe C, Warden D. nhận thức được sự phân biệt đối xử và đau khổ tâm lý: Vai trò của lòng tự trọng cá nhân và sắc tộc.Tạp chí Tâm lý tư vấn.2004; 51: 329 Từ339.http://dx.doi.org/10.1037/0022-0167.51.3.329.[Học giả Google]Journal of Counseling Psychology. 2004;51:329–339. http://dx.doi.org/10.1037/0022-0167.51.3.329. [Google Scholar]
  • Charmaz K. Xây dựng lý thuyết nền tảng.Thousand Oaks, CA: Sage;2006. [Học giả Google]Constructing grounded theory. Thousand Oaks, CA: Sage; 2006. [Google Scholar]
  • Chavous TM, Rivas-Drake D, Smalls C, Griffin T, Cogburn C. Các vấn đề giới tính, quá: những ảnh hưởng của phân biệt chủng tộc và bản sắc chủng tộc đối với kết quả tham gia học tập của thanh thiếu niên người Mỹ gốc Phi.Tâm lý học phát triển.2008; 44: 637 Từ654.http://dx.doi.org/10.1037/0012-1649.44.3.637.[PubMed] [Học giả Google]Developmental Psychology. 2008;44:637–654. http://dx.doi.org/10.1037/0012-1649.44.3.637. [PubMed] [Google Scholar]
  • Chorpita BF, Barlow DH.Sự phát triển của sự lo lắng: Vai trò của kiểm soát trong môi trường ban đầu.Bản tin tâm lý.1998; 124: 3 trận21.http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.124.1.3.[PubMed] [Học giả Google]Psychological Bulletin. 1998;124:3–21. http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.124.1.3. [PubMed] [Google Scholar]
  • Creswell JW, Plano Clark VL.Chọn một thiết kế phương pháp hỗn hợp.Thiết kế và tiến hành nghiên cứu phương pháp hỗn hợp.Thousand Oaks, CA: Sage;Năm 2007 trang 58 bóng88.[Học giả Google]Choosing a mixed methods design. Designing and conducting mixed methods research. Thousand Oaks, CA: Sage; 2007. pp. 58–88. [Google Scholar]
  • Csikszentmihalyi M, Larson R. Tính hợp lệ và độ tin cậy của phương pháp lấy mẫu kinh nghiệm.Tạp chí thần kinh và bệnh tâm thần.1987; 175: 526 Từ536.http://dx.doi.org/10.1097/00005053-198709000-00004.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Nervous and Mental Disease. 1987;175:526–536. http://dx.doi.org/10.1097/00005053-198709000-00004. [PubMed] [Google Scholar]
  • Dedoose.Dedoose, phiên bản 4.5, Ứng dụng web để quản lý, phân tích và trình bày dữ liệu nghiên cứu phương pháp định tính và hỗn hợp.Los Angeles, CA: Tư vấn nghiên cứu văn hóa xã hội, LLC;2013. Lấy từ www.dedoose.com.[Học giả Google]Dedoose, version 4.5, web application for managing, analyzing, and presenting qualitative and mixed method research data. Los Angeles, CA: SocioCultural Research Consultants, LLC; 2013. Retrieved from www.dedoose.com. [Google Scholar]
  • De Goede IH, Branje SJ, Meeus Wh.Những thay đổi phát triển và sự khác biệt về giới trong thanh thiếu niên Nhận thức về tình bạn.Tạp chí tuổi thiếu niên.2009; 32: 1105 Từ1123.http://dx.doi.org/10.1016/j.adolescent.2009.03.002.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Adolescence. 2009;32:1105–1123. http://dx.doi.org/10.1016/j.adolescence.2009.03.002. [PubMed] [Google Scholar]
  • Eder D, Evans CC, Parker S. Trường học: Văn hóa giới tính và thanh thiếu niên.New Brunswick, NJ: Nhà xuất bản Đại học Rutgers;1995. [Học giả Google]School talk: Gender and adolescent culture. New Brunswick, NJ: Rutgers University Press; 1995. [Google Scholar]
  • Tiếng Anh D, Lambert SF, Ialongo NS.Mối liên quan theo chiều dọc giữa phân biệt chủng tộc có kinh nghiệm và các triệu chứng trầm cảm ở thanh thiếu niên người Mỹ gốc Phi.Tâm lý học phát triển.2014; 50: 1190 Từ1196.http://dx.doi.org/10.1037/A0034703.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Developmental Psychology. 2014;50:1190–1196. http://dx.doi.org/10.1037/a0034703. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Erikson eh.Danh tính: Tuổi trẻ và khủng hoảng.New York, NY: Norton, Inc;1968. [Học giả Google]Identity: Youth and crisis. New York, NY: Norton, Inc; 1968. [Google Scholar]
  • Faith MA, Storch EA, Roberti JW, Ledley DR.Nhớ lại thời thơ ấu trêu chọc ở những người trưởng thành không lâm sàng, không đại học.Tạp chí Tâm lý học và Đánh giá hành vi.2008; 30: 171 Từ179.http://dx.doi.org/10.1007/s10862-007-9062-0.[Học giả Google]Journal of Psychopathology and Behavioral Assessment. 2008;30:171–179. http://dx.doi.org/10.1007/s10862-007-9062-0. [Google Scholar]
  • Finlay L. Hồi Outing, nhà nghiên cứu: Sự xuất xứ, quy trình và thực hành phản xạ.Nghiên cứu sức khỏe định tính.2002; 12: 531 Từ545.http://dx.doi.org/10.1177/104973202129120052.[PubMed] [Học giả Google]Qualitative Health Research. 2002;12:531–545. http://dx.doi.org/10.1177/104973202129120052. [PubMed] [Google Scholar]
  • Fisher CB, Wallace SA, Fenton RE.Sự đau khổ phân biệt đối xử trong tuổi thiếu niên.Tạp chí Thanh niên và Tuổi vị thành niên.2000; 29: 679 Từ695.http://dx.doi.org/10.1023/a:1026455906512.[Học giả Google]Journal of Youth and Adolescence. 2000;29:679–695. http://dx.doi.org/10.1023/A:1026455906512. [Google Scholar]
  • García Coll C, Lamberty G, Jenkins R, McAdoo HP, Crnic K, Wasik BH, Vázquez García H. Một mô hình tích hợp cho nghiên cứu về năng lực phát triển ở trẻ em thiểu số.Sự phát triển của trẻ.1996; 67: 1891 Từ1914.http://dx.doi.org/10.2307/1131600.[PubMed] [Học giả Google]Child Development. 1996;67:1891–1914. http://dx.doi.org/10.2307/1131600. [PubMed] [Google Scholar]
  • Gaylord-Harden NK, Cickyham JA.Tác động của phân biệt chủng tộc và chiến lược đối phó đối với các triệu chứng nội tâm hóa ở thanh niên Mỹ gốc Phi.Tạp chí Thanh niên và Tuổi vị thành niên.2009; 38: 532 Từ543.http://dx.doi.org/10.1007/S10964-008-9377-5.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Youth and Adolescence. 2009;38:532–543. http://dx.doi.org/10.1007/s10964-008-9377-5. [PubMed] [Google Scholar]
  • GEE GC, Walsemann KM, Brondolo E. Một quan điểm của khóa học cuộc sống về cách phân biệt chủng tộc có thể liên quan đến sự bất bình đẳng về sức khỏe.Tạp chí sức khỏe cộng đồng Mỹ.2012; 102: 967 Từ974.http://dx.doi.org/10.2105/ajph.2012.300666.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]American Journal of Public Health. 2012;102:967–974. http://dx.doi.org/10.2105/AJPH.2012.300666. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Glaser BG.Khái niệm cơ bản của phân tích lý thuyết căn cứ.Thung lũng Mill, CA: Báo chí Xã hội học;1992. [Học giả Google]Basics of grounded theory analysis. Mill Valley, CA: The Sociology Press; 1992. [Google Scholar]
  • Graham S, Munnikksma A, Juvonen J. Lợi ích tâm lý xã hội của tình bạn xuyên dân tộc ở các trường trung học thành thị.Sự phát triển của trẻ.2014; 85: 469 Từ483.http://dx.doi.org/10.1111/cdev.12159.[PubMed] [Học giả Google]Child Development. 2014;85:469–483. http://dx.doi.org/10.1111/cdev.12159. [PubMed] [Google Scholar]
  • Greene ML, Way N, Pahl K. Các quỹ đạo của sự phân biệt đối xử người lớn và đồng đẳng giữa thanh thiếu niên da đen, Latino và người Mỹ gốc Á: các mô hình và tương quan tâm lý.Tâm lý học phát triển.2006; 42: 218 Từ236.http://dx.doi.org/10.1037/0012-1649.42.2.218.[PubMed] [Học giả Google]Developmental Psychology. 2006;42:218–236. http://dx.doi.org/10.1037/0012-1649.42.2.218. [PubMed] [Google Scholar]
  • Harrell sp.Một khái niệm đa chiều của căng thẳng phân biệt chủng tộc: Ý nghĩa đối với hạnh phúc của người da màu.Tạp chí Chỉnh hình Hoa Kỳ.2000; 70: 42 bóng57.http://dx.doi.org/10.1037/h0087722.[PubMed] [Học giả Google]American Journal of Orthopsychiatry. 2000;70:42–57. http://dx.doi.org/10.1037/h0087722. [PubMed] [Google Scholar]
  • Hayden-Wade HA, Stein RI, Ghaderi A, Savens BE, Zabinski MF, Wilfley DE.Tỷ lệ, đặc điểm và mối tương quan của trải nghiệm trêu chọc ở trẻ em thừa cân so với các đồng nghiệp không cân đối.Nghiên cứu béo phì.2005; 13: 1381 Từ1392.http://dx.doi.org/10.1038/oby.2005.167.[PubMed] [Học giả Google]Obesity Research. 2005;13:1381–1392. http://dx.doi.org/10.1038/oby.2005.167. [PubMed] [Google Scholar]
  • Hodges EV, Boivin M, Vitaro F, Bukowski WM.Sức mạnh của tình bạn: Bảo vệ chống lại một chu kỳ leo thang của nạn nhân ngang hàng.Tâm lý học phát triển.1999; 35: 94 Từ101.http://dx.doi.org/10.1037/0012-1649.35.1.94.[PubMed] [Học giả Google]Developmental Psychology. 1999;35:94–101. http://dx.doi.org/10.1037/0012-1649.35.1.94. [PubMed] [Google Scholar]
  • Jones DC, Crawford JK.Văn hóa xuất hiện ngang hàng trong thời niên thiếu: biến thể khối lượng giới tính và cơ thể.Tạp chí Thanh niên và Tuổi vị thành niên.2006; 35: 243 bóng269.http://dx.doi.org/10.1007/s10964-005-9006-5.[Học giả Google]Journal of Youth and Adolescence. 2006;35:243–269. http://dx.doi.org/10.1007/s10964-005-9006-5. [Google Scholar]
  • Jones D, Newman J, Bautista S. Một mô hình ba yếu tố trêu chọc: ảnh hưởng của tình bạn, giới tính và chủ đề đối với các phản ứng cảm xúc dự kiến để trêu chọc trong thời niên thiếu.Phát triển xã hội.2005; 14: 421 Từ439.http://dx.doi.org/10.1111/j.1467-9507.2005.00309.x.[Học giả Google]Social Development. 2005;14:421–439. http://dx.doi.org/10.1111/j.1467-9507.2005.00309.x. [Google Scholar]
  • Keltner D, Capps L, Kring AM, Young RC, Heerey EA.Chỉ cần trêu chọc: Một phân tích khái niệm và đánh giá thực nghiệm.Bản tin tâm lý.2001; 127: 229 Từ248.http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.127.2.229.[PubMed] [Học giả Google]Psychological Bulletin. 2001;127:229–248. http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.127.2.229. [PubMed] [Google Scholar]
  • Keltner D, Young RC, Heerey EA, Oemig C, Monarch ND.Trêu chọc trong quan hệ phân cấp và thân mật.Tạp chí Tính cách và Tâm lý xã hội.1998; 75: 1231 Từ1247.http://dx.doi.org/10.1037/0022-3514.75.5.1231.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Personality and Social Psychology. 1998;75:1231–1247. http://dx.doi.org/10.1037/0022-3514.75.5.1231. [PubMed] [Google Scholar]
  • Kowalski RM, biên tập viên.Cho phép thiếu tôn trọng: trêu chọc trong các tương tác giữa các cá nhân.Washington, DC: Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ;2001. [Học giả Google]Permitted disrespect: Teasing in interpersonal interactions. Washington, DC: American Psychological Association; 2001. [Google Scholar]
  • Kowalski RM, biên tập viên.Phàn nàn, trêu chọc và các hành vi khó chịu khác.New Haven, CT: Nhà xuất bản Đại học Yale;2003. [Học giả Google]Complaining, teasing, and other annoying behaviors. New Haven, CT: Yale University Press; 2003. [Google Scholar]
  • La Greca AM, Lopez N. Lo lắng xã hội giữa thanh thiếu niên: Liên kết với quan hệ ngang hàng và tình bạn.Tạp chí tâm lý trẻ em bất thường.1998; 26: 83 bóng94.http://dx.doi.org/10.1023/a:1022684520514.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Abnormal Child Psychology. 1998;26:83–94. http://dx.doi.org/10.1023/A:1022684520514. [PubMed] [Google Scholar]
  • MacLeod C, Rutherford EM.Lo lắng và xử lý chọn lọc thông tin cảm xúc: Vai trò trung gian của nhận thức, đặc điểm và biến trạng thái, và sự phù hợp cá nhân của các vật liệu kích thích.Nghiên cứu và trị liệu hành vi.1992; 30: 479 bóng491.http://dx.doi.org/10.1016/0005-7967(92)90032-C.[PubMed] [Học giả Google]Behaviour Research and Therapy. 1992;30:479–491. http://dx.doi.org/10.1016/0005-7967(92)90032-C. [PubMed] [Google Scholar]
  • Magnusson D, Stattin H. Các lý thuyết tương tác trong bối cảnh người.Trong: Damon W, Lerner RM, biên tập viên.Cẩm nang tâm lý trẻ em.Tập.1. Hoboken, NJ: Wiley;1998. Trang 687 Từ759.[Học giả Google]Handbook of child psychology. Vol. 1. Hoboken, NJ: Wiley; 1998. pp. 687–759. [Google Scholar]
  • Mathews A, MacLeod C. Phân biệt các tín hiệu đe dọa mà không nhận thức được trong các trạng thái lo lắng.Tạp chí Tâm lý học bất thường.1986; 95: 131 Từ138.http://dx.doi.org/10.1037/0021-843x.95.2.131.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Abnormal Psychology. 1986;95:131–138. http://dx.doi.org/10.1037/0021-843X.95.2.131. [PubMed] [Google Scholar]
  • McCabe RE, Miller JL, Laugesen N, Antony MM, Young L. Mối quan hệ giữa các rối loạn lo âu ở người lớn và nhớ lại sự trêu chọc thời thơ ấu.Tạp chí rối loạn lo âu.2010; 24: 238 Từ243.http://dx.doi.org/10.1016/j.janxdis.2009.11.002.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Anxiety Disorders. 2010;24:238–243. http://dx.doi.org/10.1016/j.janxdis.2009.11.002. [PubMed] [Google Scholar]
  • Mooney A, Creeser R, Blatchford P. Trẻ em Quan điểm về trêu chọc và chiến đấu ở các trường trung học cơ sở.Nghiên cứu giáo dục.1991; 33: 103 bóng112.http://dx.doi.org/10.1080/0013188910330203.[Học giả Google]Educational Research. 1991;33:103–112. http://dx.doi.org/10.1080/0013188910330203. [Google Scholar]
  • Moore J., III Một cuộc điều tra định tính về quỹ đạo nghề nghiệp của nam giới người Mỹ gốc Phi trong kỹ thuật: Ý nghĩa đối với giáo viên, cố vấn trường học và phụ huynh.Giáo viên đại học hồ sơ.2006; 108: 246 Từ266.http://dx.doi.org/10.1111/j.1467-9620.2006.00653.x.[Học giả Google]Teachers College Record. 2006;108:246–266. http://dx.doi.org/10.1111/j.1467-9620.2006.00653.x. [Google Scholar]
  • Moskowitz DS, Russell JJ.Đo lường hành vi.Tạp chí cá tính châu Âu.2009; 23: 417 Từ419. [Học giả Google]European Journal of Personality. 2009;23:417–419. [Google Scholar]
  • Nansel TR, Overpeck M, Pilla RS, Ruan WJ, Simons-Morton B, Scheidt P. Các hành vi bắt nạt trong chúng ta thanh niên: tỷ lệ lưu hành và liên kết với điều chỉnh tâm lý xã hội.JAMA: Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ.2001; 285: 2094 Từ2100.http://dx.doi.org/10.1001/jama.285.16.2094.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]JAMA: Journal of the American Medical Association. 2001;285:2094–2100. http://dx.doi.org/10.1001/jama.285.16.2094. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Newcomb AF, Bagwell CL.Quan hệ tình bạn của trẻ em: Một đánh giá phân tích tổng hợp.Bản tin tâm lý.1995; 117: 306 Từ347.http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.117.2.306.[Học giả Google]Psychological Bulletin. 1995;117:306–347. http://dx.doi.org/10.1037/0033-2909.117.2.306. [Google Scholar]
  • Ong AD, Burrow AL, Fuller-Rowell TE, JA NM, Sue DW.Các vi phạm chủng tộc và hạnh phúc hàng ngày ở người Mỹ gốc Á.Tạp chí Tâm lý tư vấn.2013; 60: 188 Từ199.http://dx.doi.org/10.1037/A0031736.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Counseling Psychology. 2013;60:188–199. http://dx.doi.org/10.1037/a0031736. [PubMed] [Google Scholar]
  • Pascoe EA, Smart Richman L. nhận thấy sự phân biệt đối xử và sức khỏe: Một đánh giá phân tích tổng hợp.Bản tin tâm lý.2009; 135: 531 Từ554.http://dx.doi.org/10.1037/A0016059.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Psychological Bulletin. 2009;135:531–554. http://dx.doi.org/10.1037/a0016059. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Patton MQ.Nghiên cứu định tính.Hoboken, NJ: Wiley, Ltd .;2005. http://dx.doi.org/10.1002/0470013192.bsa514.[Học giả Google]Qualitative research. Hoboken, NJ: Wiley, Ltd.; 2005. http://dx.doi.org/10.1002/0470013192.bsa514. [Google Scholar]
  • Pawluk CJ.Xây dựng xã hội trêu chọc.Tạp chí cho lý thuyết về hành vi xã hội.1989; 19: 145 Từ167.http://dx.doi.org/10.1111/j.1468-5914.1989.tb00142.x.[Học giả Google]Journal for the Theory of Social Behaviour. 1989;19:145–167. http://dx.doi.org/10.1111/j.1468-5914.1989.tb00142.x. [Google Scholar]
  • Phinney JS.Các giai đoạn phát triển bản sắc dân tộc ở thanh thiếu niên nhóm thiểu số.Tạp chí sớm tuổi thiếu niên.1989; 9: 34 bóng49.http://dx.doi.org/10.1177/0272431689091004.[Học giả Google]The Journal of Early Adolescence. 1989;9:34–49. http://dx.doi.org/10.1177/0272431689091004. [Google Scholar]
  • Phinney J, Tarver S. Tìm kiếm bản sắc dân tộc và cam kết trong các học sinh lớp tám đen trắng.Tạp chí sớm tuổi thiếu niên.1988; 8: 265 Từ277.http://dx.doi.org/10.1177/0272431688083004.[Học giả Google]The Journal of Early Adolescence. 1988;8:265–277. http://dx.doi.org/10.1177/0272431688083004. [Google Scholar]
  • Pollock M. Colormute: Những vấn đề nan giải trong cuộc đua trong một trường học ở Mỹ.Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học Princeton;2004. [Học giả Google]Colormute: Race talk dilemmas in an American school. Princeton, NJ: Princeton University Press; 2004. [Google Scholar]
  • Quillian L. Cách tiếp cận mới để hiểu định kiến và phân biệt chủng tộc.Đánh giá hàng năm về xã hội học.2006; 32: 299 Từ328.http://dx.doi.org/10.1146/annurev.soc.32.061604.123132.[Học giả Google]Annual Review of Sociology. 2006;32:299–328. http://dx.doi.org/10.1146/annurev.soc.32.061604.123132. [Google Scholar]
  • Quintana sm.Trẻ em hiểu biết về dân tộc và chủng tộc.Tâm lý học ứng dụng & phòng ngừa.1998; 7: 27 trận45.http://dx.doi.org/10.1016/s0962-1849(98)80020-6.[Học giả Google]Applied & Preventive Psychology. 1998;7:27–45. http://dx.doi.org/10.1016/S0962-1849(98)80020-6. [Google Scholar]
  • Quintana SM, McKown C. Cẩm nang về chủng tộc, phân biệt chủng tộc và đứa trẻ đang phát triển.Hoboken, NJ: Wiley;2008 [Học giả Google]Handbook of race, racism, and the developing child. Hoboken, NJ: Wiley; 2008. [Google Scholar]
  • Raudenbush SW, Bryk AS, Congdon R. HLM 6 cho Windows [Phần mềm máy tính] Skokie, IL: Science Software International, Inc .;2004. [Học giả Google]HLM 6 for Windows [Computer software] Skokie, IL: Scientific Software International, Inc.; 2004. [Google Scholar]
  • Reis HT, Bleach P. Sự thân mật như một quá trình giữa các cá nhân.Trong: Duck S, Hay DF, Hobfoll SE, Ickes W, Montgomery BM, biên tập viên.Cẩm nang về các mối quan hệ cá nhân: Lý thuyết, nghiên cứu và can thiệp.Oxford, Anh: Wiley;1988. Trang 367 Từ389.[Học giả Google]Handbook of personal relationships: Theory, research and interventions. Oxford, England: Wiley; 1988. pp. 367–389. [Google Scholar]
  • Rivas-Drake D, Hughes D, Way N. Một phân tích sơ bộ về các hiệp hội giữa xã hội hóa dân tộc, phân biệt chủng tộc và bản sắc dân tộc giữa các học sinh lớp sáu đô thị.Tạp chí nghiên cứu về tuổi thiếu niên.2009; 19: 558 Từ584.http://dx.doi.org/10.1111/j.1532-7795.2009.00607.x.[Học giả Google]Journal of Research on Adolescence. 2009;19:558–584. http://dx.doi.org/10.1111/j.1532-7795.2009.00607.x. [Google Scholar]
  • Roberts RA, Bell LA, Murphy B. Lật kịch bản: Phân tích giới trẻ nói về chủng tộc và phân biệt chủng tộc.Nhân chủng học & Giáo dục hàng quý.2008; 39: 334 Từ354.http://dx.doi.org/10.1111/j.1548-1492.2008.00025.x.[Học giả Google]Anthropology & Education Quarterly. 2008;39:334–354. http://dx.doi.org/10.1111/j.1548-1492.2008.00025.x. [Google Scholar]
  • Rosenbloom S, Way N. Kinh nghiệm phân biệt đối xử giữa thanh thiếu niên người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Á và Latino ở một trường trung học thành thị.Thanh niên & Xã hội.2004; 35: 420 bóng451.http://dx.doi.org/10.1177/0044118x03261479.[Học giả Google]Youth & Society. 2004;35:420–451. http://dx.doi.org/10.1177/0044118X03261479. [Google Scholar]
  • Sanford S, Eder D. Hài hước vị thành niên trong quá trình tương tác ngang hàng.Tâm lý xã hội hàng quý.1984; 47: 235 bóng243.http://dx.doi.org/10.2307/3033820.[Học giả Google]Social Psychology Quarterly. 1984;47:235–243. http://dx.doi.org/10.2307/3033820. [Google Scholar]
  • Savin-Williams RC, Berndt TJ.Tình bạn và quan hệ ngang hàng.Trong: Feldman S, Elliott GR, biên tập viên.Ở ngưỡng: thanh thiếu niên đang phát triển.Cambridge, MA: Nhà xuất bản Đại học Harvard;1990. Trang 277 Điện307.[Học giả Google]At the threshold: The developing adolescent. Cambridge, MA: Harvard University Press; 1990. pp. 277–307. [Google Scholar]
  • Schwartz D, Dodge KA, Pettit GS, Bates JE.Sự xã hội hóa sớm của các nạn nhân hung hăng của bắt nạt.Sự phát triển của trẻ.1997; 68: 665 Từ675.http://dx.doi.org/10.2307/1132117.[PubMed] [Học giả Google]Child Development. 1997;68:665–675. http://dx.doi.org/10.2307/1132117. [PubMed] [Google Scholar]
  • DET DW, Bogart LM, Ehrhardt AA.Động lực nhóm nhỏ: Tiện ích của các cuộc thảo luận nhóm tập trung như một phương pháp nghiên cứu.Nhóm năng động, nhóm nỗ lực.1998; 2: 253 bóng266.http://dx.doi.org/10.1037/1089-2699.2.4.253.[Học giả Google]Group Dynamics. 1998;2:253–266. http://dx.doi.org/10.1037/1089-2699.2.4.253. [Google Scholar]
  • Seaton EK, Doulass S. Sự đa dạng của trường học và phân biệt chủng tộc giữa thanh thiếu niên người Mỹ gốc Phi.Đa dạng văn hóa và tâm lý dân tộc thiểu số.2014; 20: 156 Từ165.http://dx.doi.org/10.1037/A0035322.[PubMed] [Học giả Google]Cultural Diversity and Ethnic Minority Psychology. 2014;20:156–165. http://dx.doi.org/10.1037/a0035322. [PubMed] [Google Scholar]
  • Selman rl.Sự tăng trưởng của sự hiểu biết giữa các cá nhân: phân tích phát triển và lâm sàng.San Diego, CA: Báo chí học thuật;1980. [Học giả Google]The growth of interpersonal understanding: Developmental and clinical analyses. San Diego, CA: Academic Press; 1980. [Google Scholar]
  • Selye H. Sự phát triển của khái niệm căng thẳng.Nhà khoa học Mỹ.1973; 61: 692 Từ699.[PubMed] [Học giả Google]American Scientist. 1973;61:692–699. [PubMed] [Google Scholar]
  • Shelton JN, Trail TE, West TV, Bergsieker HB.Từ người lạ đến bạn bè: Mô hình quy trình giữa các cá nhân của sự thân mật trong việc phát triển tình bạn giữa các chủng tộc.Tạp chí các mối quan hệ xã hội và cá nhân.2010; 27 (1): 71 Từ90.http://dx.doi.org/10.1177/0265407509346422.[Học giả Google]Journal of Social and Personal Relationships. 2010;27(1):71–90. http://dx.doi.org/10.1177/0265407509346422. [Google Scholar]
  • Smith KJ, Belgrave LL.Việc tái thiết cuộc sống hàng ngày: Trải nghiệm cơn bão Andrew.Tạp chí Dân tộc học đương đại.1995; 24: 244 Từ269.http://dx.doi.org/10.1177/089124195024003001.[Học giả Google]Journal of Contemporary Ethnography. 1995;24:244–269. http://dx.doi.org/10.1177/089124195024003001. [Google Scholar]
  • Spencer MB.Các vấn đề cũ và lý thuyết mới về thanh niên người Mỹ gốc Phi: một biến thể hiện tượng học của lý thuyết hệ sinh thái.Trong: Taylor RL, biên tập viên.Thanh niên da đen: Quan điểm về địa vị của họ ở Hoa Kỳ.Westport, CT: Praeger;1995. Trang 37 376969.[Học giả Google]Black youth: Perspectives on their status in the United States. Westport, CT: Praeger; 1995. pp. 37–69. [Google Scholar]
  • Spencer MB.Hiện tượng học và Hệ thống sinh thái Lý thuyết: Phát triển các nhóm khác nhau.Trong: Damon W, Lerner R, biên tập viên.Cẩm nang tâm lý trẻ em: Tập.1. Các mô hình lý thuyết về sự phát triển của con người.Tái bản lần thứ 6.New York, NY: Wiley;2006. Trang 829 Từ893.[Học giả Google]Handbook of child psychology: Vol. 1. Theoretical models of human development. 6th ed. New York, NY: Wiley; 2006. pp. 829–893. [Google Scholar]
  • Spencer MB, Dupree D, Hartmann T. Một biến thể hiện tượng học của lý thuyết hệ sinh thái (PVEST): Một quan điểm tự tổ chức trong bối cảnh.Phát triển và tâm lý học.1997; 9: 817 Từ833.http://dx.doi.org/10.1017/s0954579497001454.[PubMed] [Học giả Google]Development and Psychopathology. 1997;9:817–833. http://dx.doi.org/10.1017/S0954579497001454. [PubMed] [Google Scholar]
  • Spielberger CD, Gorsuch RL, Lushene RE.Hướng dẫn sử dụng cho hàng tồn kho lo âu trạng thái.Palo Alto, CA: Các nhà tâm lý học tư vấn báo chí;1970. [Học giả Google]Manual for the State-Trait Anxiety Inventory. Palo Alto, CA: Consulting Psychologists Press; 1970. [Google Scholar]
  • Storch EA, Brassard MR, Masia-Warner CL.Mối quan hệ của nạn nhân ngang hàng với sự lo lắng xã hội và sự cô đơn ở tuổi thiếu niên.Tạp chí nghiên cứu trẻ em.2003; 33: 1 Từ19. [Học giả Google]Child Study Journal. 2003;33:1–19. [Google Scholar]
  • Strauss A, Corbin J. Những điều cơ bản về nghiên cứu định tính: Kỹ thuật và quy trình phát triển lý thuyết có căn cứ.Tái bản lần 2.Thousand Oaks, CA: Sage;1998. [Học giả Google]Basics of qualitative research: Techniques and procedures for developing grounded theory. 2nd ed. Thousand Oaks, CA: Sage; 1998. [Google Scholar]
  • Sue dw.Vi mô chủng tộc và thế giới quan.Nhà tâm lý học người Mỹ.2009; 64 (3): 220 Từ221.http://dx.doi.org/10.1037/A0015310.[PubMed] [Học giả Google]American Psychologist. 2009;64(3):220–221. http://dx.doi.org/10.1037/a0015310. [PubMed] [Google Scholar]
  • Sue D, Capodilupo CM, Nadal KL, Torino GC.Các vi phạm chủng tộc và sức mạnh để xác định thực tế.Nhà tâm lý học người Mỹ.2008; 63: 277 Từ279.http://dx.doi.org/10.1037/0003-066x.63.4.277.[Học giả Google]American Psychologist. 2008;63:277–279. http://dx.doi.org/10.1037/0003-066X.63.4.277. [Google Scholar]
  • Swann Wb., Jr Đàm phán nhận dạng: nơi hai con đường gặp nhau.Tạp chí Tính cách và Tâm lý xã hội.1987; 53: 1038 Từ1051.http://dx.doi.org/10.1037/0022-3514.53.6.1038.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Personality and Social Psychology. 1987;53:1038–1051. http://dx.doi.org/10.1037/0022-3514.53.6.1038. [PubMed] [Google Scholar]
  • Tragesser SL, Lippman LG.Trêu chọc: cho sự vượt trội hay đoàn kết?Tạp chí Tâm lý học nói chung.2005; 132: 255 bóng266.http://dx.doi.org/10.3200/genp.132.3.255-266.[PubMed] [Học giả Google]Journal of General Psychology. 2005;132:255–266. http://dx.doi.org/10.3200/GENP.132.3.255-266. [PubMed] [Google Scholar]
  • Tynes BM, Giang MT, Williams DR, Thompson GN.Phân biệt chủng tộc trực tuyến và điều chỉnh tâm lý giữa thanh thiếu niên.Tạp chí sức khỏe vị thành niên.2008; 43: 565 bóng569.http://dx.doi.org/10.1016/j.jadohealth.2008.08.021.[PubMed] [Học giả Google]Journal of Adolescent Health. 2008;43:565–569. http://dx.doi.org/10.1016/j.jadohealth.2008.08.021. [PubMed] [Google Scholar]
  • Umaña-Taylor AJ, Ma tốt.Kiểm tra bản sắc dân tộc giữa thanh thiếu niên có nguồn gốc từ Mexico sống ở Hoa Kỳ.Tạp chí Khoa học Hành vi Tây Ban Nha.2004; 26: 36 trận59.http://dx.doi.org/10.1177/0739986303262143.[Học giả Google]Hispanic Journal of Behavioral Sciences. 2004;26:36–59. http://dx.doi.org/10.1177/0739986303262143. [Google Scholar]
  • Unrever JD.Những kẻ bắt nạt, nạn nhân hung hăng và nạn nhân: họ có phải là nhóm khác biệt không?Hành vi hung hăng.2005; 31: 153 Từ171.http://dx.doi.org/10.1002/ab.20083.[Học giả Google]Aggressive Behavior. 2005;31:153–171. http://dx.doi.org/10.1002/ab.20083. [Google Scholar]
  • Vervoort MH, Scholte RH, Overbeek G. Bắt nạt và nạn nhân trong thanh thiếu niên: Vai trò của dân tộc và thành phần sắc tộc của lớp học.Tạp chí Thanh niên và Tuổi vị thành niên.2010; 39: 1 trận11.http://dx.doi.org/10.1007/S10964-008-9355-y.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]Journal of Youth and Adolescence. 2010;39:1–11. http://dx.doi.org/10.1007/s10964-008-9355-y. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Williams DR, Hàng xóm HW, Jackson JS.Phân biệt chủng tộc/dân tộc và sức khỏe: Những phát hiện từ các nghiên cứu cộng đồng.Tạp chí sức khỏe cộng đồng Mỹ.2003; 93: 200 trận208.http://dx.doi.org/10.2105/ajph.93.2.200.[Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar]American Journal of Public Health. 2003;93:200–208. http://dx.doi.org/10.2105/AJPH.93.2.200. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
  • Willig C. Giới thiệu nghiên cứu định tính trong tâm lý học.New York, NY: McGraw-Hill International;2013. [Học giả Google]Introducing qualitative research in psychology. New York, NY: McGraw-Hill International; 2013. [Google Scholar]