Giật cánh mũi là điềm gì năm 2024

Hội chứng Tic không gây tổn thương về mặt thể chất đối với trẻ nhưng tạo thành tật trong não, không có thuốc điều trị dứt điểm mà chủ yếu là điều chỉnh tâm lý, thói quen, cách sinh hoạt

Thấy con gần đây thường có biểu hiện giật mắt, nhíu mày, nhăn mũi, chị Đ.T.B (ngụ Q.Tân Phú, TP.HCM) đã cho con - bé N.M.N (5 tuổi) đi khám mắt. Qua thăm khám và làm nhiều kiểm tra, bác sĩ xác định bé không bị bệnh gì về mắt hay khả năng thị giác.

Bé N. sau đó được chuyển qua Khoa Nhiễm - Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) để kiểm tra. Tại đây, các bác sĩ xác định bé bị hội chứng Tic. Theo lời kể của gia đình, do đang trong kỳ nghỉ hè, bé ở nhà hiếu động, thường nghịch phá, chiếc điện thoại, máy tính bảng được dùng để làm “bảo mẫu” giữ cho trẻ ngồi yên. Bé thường xuyên được ông bà và ba mẹ cho xem các chương trình, chơi các trò chơi trên điện thoại, máy tính bảng. Thậm chí, có khi bé N. ngồi chơi say sưa đến hơn 2 tiếng đồng hồ.

Với mức độ của bé N., các bác sĩ không can thiệp cho uống thuốc mà chủ yếu dặn dò gia đình không cho trẻ xem điện thoại, máy tính bảng hay ti vi nữa. Thay vào đó, cần chơi đùa với trẻ, cho trẻ chơi các trò chơi vận động, các hoạt động ngoài trời. Như thế, từ từ trẻ sẽ “quên”, hết giật mắt, nhăn mũi.

“Tic, không có thuật ngữ dịch ra tiếng Việt, là hiện tượng chuyển động của cơ lặp đi lặp lại, thường là cơ vùng mặt, cơ vai; hiếm hơn có thể tạo ra âm thanh (gừ gừ), mũi nhăn, máy mắt, giật đầu, nhăn mặt, nhún vai, cắn môi... Trẻ có khi bị giật cơ vài cái rồi hết, có khi bị liên tiếp không chịu hết, có trường hợp nặng kéo dài cả năm”, bác sĩ Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm - Thần kinh, Bệnh viện Nhi đồng 1, cho biết.

Ghi nhận tại Bệnh viện Nhi đồng 1, trẻ đến khám với những biểu hiện như trên và được chẩn đoán bị hội chứng Tic, thường tập trung nhiều vào dịp nghỉ hè, nghỉ tết. Thời gian này, bệnh viện điều trị 4 - 6 ca mỗi ngày. Hầu hết đều có cùng nguyên nhân: trẻ được gia đình cho chơi điện thoại, máy tính bảng, xem ti vi để... ngồi yên.

Giúp trẻ rời xa thiết bị công nghệ

Bác sĩ chuyên khoa 2 Nguyễn Minh Tiến, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi đồng Thành phố (TP.HCM), giải thích: Khi trẻ chơi, xem điện thoại thông minh, máy tính bảng hay coi ti vi quá nhiều, mắt căng thẳng, trẻ bị tập trung vào màn hình thì các cơ cổ, các cơ xung quanh lúc nào cũng căng và trong trạng thái tập trung. Khi đó, sẽ dẫn đến trạng thái mỏi cơ. Khi cơ mỏi, không được nghỉ ngơi, sẽ rung, giật tự phát và đưa đến tình trạng Tic.

Theo các bác sĩ, để chẩn đoán trẻ bị hội chứng Tic, trước đó trẻ đã được thăm khám và loại trừ tất cả những tổn thương thực thể khác (như bệnh lý về mắt, tật khúc xạ, viêm xoang, động kinh, thiếu dinh dưỡng...).

Hội chứng Tic không gây tổn thương về mặt thể chất đối với trẻ nhưng tạo thành tật trong não, không có thuốc điều trị dứt điểm mà chủ yếu là điều chỉnh tâm lý, thói quen, cách sinh hoạt. Bác sĩ Trương Hữu Khanh cho biết, may mắn là đa số trẻ chỉ bị tạm thời rồi hết dần, hiếm khi cần uống thuốc.

Tuy nhiên, bác sĩ Khanh lưu ý phụ huynh càng chê, la mắng trẻ giật mắt, giật miệng, lắc đầu... là xấu, sẽ thành tật, thì tình trạng trẻ bị càng nặng hơn.

“Đừng tập trung vào chuyện bị Tic mà quên chuyện Tic đi. Hãy cho trẻ chơi trò khác, để trẻ thư giãn, ngủ đủ giấc. Đặc biệt, không cho trẻ chơi máy tính bảng, điện thoại thông minh hay xem ti vi nhiều”, bác sĩ Khanh nhấn mạnh.

Bác sĩ Nguyễn Minh Tiến hướng dẫn phụ huynh nên khéo léo giúp trẻ rời xa màn hình thiết bị công nghệ. Nếu trẻ đã thuộc dạng "nghiện", mỗi ngày chơi nhiều giờ, khóc la, tỏ ra hung bạo khi bị lấy mất điện thoại hay máy tính bảng thì phụ huynh nên giảm từ từ. Với trẻ chưa “nghiện” thì chỉ cần vài ngày là từ bỏ được chiếc điện thoại, với trẻ nghiện thiết bị công nghệ rồi thì có thể mất nhiều tuần.

Ví dụ, trước đây mỗi ngày trẻ chơi 2 giờ thì ba mẹ nên giảm dần trong một ngày chỉ cho trẻ chơi 1 giờ; tuần sau, giảm thời gian chơi nhiều hơn nữa. Trẻ không cần cai điện thoại hoàn toàn nhưng hạn chế càng nhiều càng tốt.

“Để làm được điều này, phụ huynh phải cho bé các phương án thay thế món đồ chơi công nghệ. Đó có thể là đồ chơi bình thường, đồ chơi phát triển trí tuệ, hoặc hay hơn là cho trẻ tham gia một môn thể thao, các hoạt động vui chơi ngoài trời”, bác sĩ Tiến chia sẻ. Như vậy, sau một thời gian, hội chứng Tic của trẻ sẽ giảm dần và chấm dứt.

Động kinh rung giật cơ là một sự co cơ thoáng qua, tạo cảm giác như giật ở một hoặc một nhóm cơ. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và đôi khi chẩn đoán xác định bằng điện cơ. Điều trị bao gồm điều chỉnh các nguyên nhân có thể đảo ngược và, khi cần thiết, thuốc uống để giảm triệu chứng.

(Xem thêm Tổng quan về Rối loạn vận động và tiểu não.)

Giật cơ có thể được phân loại là sinh lý (lành tính) hoặc bệnh lý ().

Giật cơ sinh lý có thể xảy ra khi một người đang ngủ và trong pha ngủ sớm (gọi là giật cơ khi ngủ). Giật cơ khi ngủ có thể là cục bộ, đa ổ, phân đoạn, hoặc toàn thân (nhìn dưới) và có thể giống như một phản ứng giật mình. Một loại chứng giật cơ sinh lý khác là nấc (giật cơ hoành).

Giật cơ bệnh lý có thể có nguyên nhân do nhiều loại bệnh lý và thuốc (xem bảng ). Các nguyên nhân phổ biến nhất là

  • Thiếu oxy
  • Độc tính thuốc
  • Rối loạn trao đổi chất

Các nguyên nhân khác của bệnh nhược cơ bao gồm các rối loạn thoái hóa ảnh hưởng đến các hạch nền và một số thể sa sút trí tuệ.

Nhược cơ có thể được phân loại như sau:

  • Theo phân phối: Theo phân bố của nó: khu vực, phân đoạn (khu vực tiếp giáp), khu vực đa khu vực hoặc khu vực chung
  • Theo nguồn gốc: Bởi vị trí xuất phát của nó: vỏ não, vỏ não, vỏ não hoặc ngoại vi
  • Theo thể hiện lâm sàng: Dương tính hoặc âm tính
  • Theo nguyên nhân: Nguyên nhân (nguyên phát), mắc phải, hoặc vô căn
  • Theo kích hoạt Cảm tính hoặc tự phát

Giật cơ có thể được phân loại dựa trên vị trí xuất phát của chúng:

  • Vỏ não: Vỏ não Rung giật cơ vỏ não có liên quan đến tổn thương vỏ não hoặc chứng động kinh. Kích thích thị giác hoặc xúc giác có thể gây khởi phát giật cơ, từ đó gây ra các bất thường trên điện não đồ bao gồm sóng nhọn cục bộ hoặc toàn thể, xung động kinh đa đỉnh, điện thế khêu gợi cảm giác thân thể). Các cơn động kinh giật cơ có thể ít rõ ràng hơn khi nghỉ nhưng tăng lên khi vận động. Loại giật cơ này có thể làm giảm khả năng nói và đi bộ.
  • Dưới vỏ: Rung giật cơ dưới vỏ có liên quan đến các rối loạn ảnh hưởng đến hạch nền hoặc các cấu trúc dưới vỏ khác. Tác dụng của nó tương tự như tác dụng của rung giật cơ. Tuy nhiên, không có bất thường điện não đồ và điện thế kêu gợi cảm giác thân thể, các kích thích thị giác và ánh sáng không phải là yếu tố gây khởi phát. Các loại giật cơ dưới vỏ bao gồm rung giật cơ, rối loạn trương lực-rung giật cơ, rối loạn phản xạ gân cơ, hội chứng giật cơ, bệnh Creutzfeldt-Jakob và viêm não toàn bộ bán cấp ().
  • Phân đoạn và ngoại vi: Các dạng giật cơ đoạn hoặc ngoại biên là tương đối hiếm. Giật cơ phân đoạn bao gồm giật cơ cột sống và cơ trước cột sống. Giật cơ cột sống liên quan đến giật cơ trong các cơ của tủy sống ở một hoặc một số đoạn gần của tủy sống. Giật cơ gai cánh tay được đặc trưng bởi các cử động lan truyền chậm, thường kéo dài không thường xuyên với các loại rung giật cơ khác. Rung giật cơ, bây giờ chủ yếu được coi là một thuật ngữ sai, đã được phân loại lại là run miệng. Bệnh cơ tim ngoại biên phổ biến nhất là co thắt nửa mặt; nó là kết quả chủ yếu từ sự chèn ép mạch của dây thần kinh mặt khi nó thoát ra từ thân não hoặc do chèn ép bởi các khối u góc cầu tiểu não. Co thắt huyết khối thì hiếm hơn; nó được đặc trưng bởi các cơn co thắt một bên, kịch phát của cơ hàm. Nó có thể là do sự chèn ép của nhánh vận động của dây thần kinh sinh ba.

Phân loại giật cơ dựa trên nguồn gốc được cho là hữu ích nhất giúp lựa chọn phương án điều trị hiệu quả nhất.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân bị giật cơ có thể được phân loại là dương tính hoặc âm tính:

  • dương tính: Bệnh nhân có co giật cơ chủ động dẫn đến giật cơ.
  • Âm tính: Cơ giảm trương lực đột ngột (có hiện tượng im lặng điện ký trên điện cơ); khi các cơ phản trọng lực làm mất trương lực cơ, bệnh nhân có thể bị ngã. Giật cơ âm tính bao gồm dấu sao (ví dụ, vỗ tay xảy ra ở bệnh nhân suy gan nặng).

Giật cơ dương tính và âm tính thường xảy ra ở cùng một bệnh nhân.

Nguyên nhân của giật cơ có thể là nguyên phát (nguyên phát), mắc phải (phổ biến nhất) hoặc vô căn.

  • Yếu cơ không có nguyên nhân xác định và/hoặc bị nghi ngờ liên quan đến các yếu tố di truyền.
  • Giật cơ có nhiều nguyên nhân, bao gồm nhiều rối loạn chuyển hóa (xem bảng ). Hầu hết các trường hợp của giật cơ đều mắc phải.
  • Bệnh nhược cơ là giật cơ mà sự hiện diện của nó hoàn toàn không giải thích được.

Giật cơ có thể có kích hoạt hoặc không:

  • Nhạy cảm: Nhạy cảm Giật cơ được kích hoạt bởi một kích thích (ví dụ như tiếng ồn đột ngột, chuyển động, ánh sáng, đe dọa thị giác), có thể xảy ra khi một người giật mình giật mình (phản ứng giật mình).
  • Tự phát: Giật cơ xảy ra mà không có kích hoạt, thường xảy ra khi nguyên nhân là do chuyển hóa.
  1. 1. Eberhardt O, Topka H: Myoclonic disorders. Brain Sci7 (8): 103, 2017. doi: 10.3390/brainsci7080103

Các triệu chứng và dấu hiệu của rung giật cơ

Động kinh rung giật cơ có thể khác nhau về biên độ, tần số, và sự phân bố.

Giật cơ có thể xảy ra tự phát hoặc gây ra do kích thích (ví dụ: tiếng ồn đột ngột, chuyển động, ánh sáng, mối đe dọa thị giác).

Giật cơ xảy ra khi bệnh nhân đột nhiên giật mình (startle myoclonus) có thể là triệu chứng sớm trong bệnh Creutzfeldt-Jacob.

Giật cơ do chấn thương đầu nghiêm trọng hoặc tổn thương não do thiếu oxy máu - thiếu máu cục bộ có thể trở tiến triển khi thực hiện các vận động có chủ ý (giật cơ chủ động,) hoặc có thể xảy ra tự phát khi hạn chế vận động do chấn thương.

Giật cơ do rối loạn chuyển hóa có thể là đa ổ, bất đối xứng, và khởi phát bởi các kích thích; thường ở các vị trí mặt hoặc gốc chi. Nếu bệnh lý căn nguyên vẫn tồn tại, các cơn giật cơ và các cơn co giật vẫn sẽ tiếp tục xảy ra.

Chẩn đoán rung giật cơ

  • Đánh giá lâm sàng

Chẩn đoán động kinh rung giật cơ chủ yếu dựa vào lâm sàng. Các test thực hiện dựa trên bệnh lý căn nguyên nghi ngờ trên lâm sàng. Chẩn đoán hình ảnh não được thực hiện.

Điều trị rung giật cơ

  • Điều trị các rối loạn chuyển hóa hoặc các nguyên nhân khác nếu có thể
  • Ngừng hoặc giảm liều thuốc gây bệnh
  • Điều trị triệu chứng với thuốc

Điều trị giật cơ khởi đầu với việc điều chỉnh các rối loạn chuyển hóa cơ bản hoặc các nguyên nhân khác nếu có thể sửa chữa được. Ngừng hoặc giảm liều thuốc nếu loại thuốc đó là căn nguyên gây giật cơ.

Để làm giảm triệu chứng, clonazepam 0,5 đến 2 mg/lần uống 3 lần/ngày thường có hiệu quả. Valproate 250 đến 500 mg/lần uống 2 lần/ngày hoặc levetiracetam 250 đến 500 mg/lần uống 1 hoặc 2 lần/ngày có thể có hiệu quả; hiếm khi các thuốc chống động kinh khác có tác dụng. Liều clonazepam hoặc valproate có thể cần phải thấp hơn ở người cao tuổi.

Vị trí khởi phát giật cơ có thể giúp hướng dẫn điều trị. Ví dụ, valproate, levetiracetam, và piracetam có khuynh hướng có hiệu quả trong cơ giật cơ vỏ não nhưng không hiệu quả ở các loại giật cơ khác. Clonazepam có thể có hiệu quả trong tất cả các loại giật cơ. Trong một số trường hợp, cần thiết phải kết hợp thuốc.

Trước đây, nhiều loại myoclonus dường như đáp ứng với tiền thân serotonin 5-hydroxytryptophan, được sử dụng với thuốc ức chế carbidopa, nhưng 5-hydroxytryptophan không còn được sử dụng nữa.

Những điểm chính

  • Động kinh rung giật cơ là một sự co cơ ngắn có cảm giác như giật, có thể khác nhau về mức độ nghiêm trọng và sự phân bố.
  • Giật cơ có thể là sinh lý (ví dụ, nấc, giật cơ liên quan đến giấc ngủ) hoặc thứ phát sau các bệnh lý não, bệnh lý hệ thống, hoặc thuốc.

Nếu nguyên nhân là rối loạn chuyển hóa, cần điều trị bệnh lý căn nguyên, sử dụng các thuốc để làm giảm triệu chứng (ví dụ clonazepam, valproate, levetiracetam).